Miền Tây và nỗi lo nhà máy điện than
Kinh tế - đầu tư - dự án - Ngày đăng : 14:56, 21/09/2016
Không có đánh giá môi trường chiến lược
Trung tâm Điện lực Duyên Hải là một cụm gồm 4 nhà máy nhiệt điện than (Duyên Hải I, Duyên Hải II, Duyên Hải III và Duyên Hải III mở rộng), tại ấp Mù U, xã Dân Thành, H.Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh do Tập đoàn Điện lực Việt Nam đầu tư (Tổng thầu là Dong Fang Electric Corporation - Trung Quốc). Đây được xem là dự án sản xuất công nghiệp trọng điểm tại ĐBSCL.
Thế nhưng, nhận xét về việc thực thi các quyđịnh bảo vệ môi trường của dự án này,qua nghiên cứu thực tếPGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu về biến đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ), khẳng định rằng: Không có báo cáo đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC); Không có báo cáo đánh giá môi trường tích lũy (Cumulative Impact Assessment); Không có báo cáo kế hoạch quản lý môi trường.
Đặc biệt, câu hỏi đặt ra làdự án này vì sao chọn ĐBSCL, đặc biệt là cửa sông Hậu làm nơi tập trung đặt nhà máy nhiệt điện than? Không có luận chứng kinh tế - kỹ thuật vì sao chọn công nghệ Trung Quốc mà không chọn những quốc gia khác? Và vấn đề tham vấn cộng đồng rất qua loa và mù mờ…
PGS.TS Tuấn cho biết, ĐBSCL không hề là nơi có nguồn nhiên liệu than cho các nhà máy (nguồn than ở Việt Nam chỉ có ở Quảng Ninh, khá xa đường vận chuyển đến Trà Vinh) nên tương lai các nhà máy nhiệt điện than này sẽ phải nhập than từ các nước ngoài (Trung Quốc, Úc hoặc Indonesia).
Do vậy về mặt chiến lược và tầm nhìn phát triển bền vững, tương lai Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng sẽ gặp nguy cơ không đảm bảo an ninh năng lượng do phụ thuộc nguồn cung nhiên liệu và thiết bị từ nước ngoài. Mặt khác, nhà máy nhiệt điện thanphát thải khí nhà kính lớn nhất gây hậu quảtiêu cực đến quá trìnhbiến đổi khí hậu.
Các longại này đã không được phân tích trong đánh giá tác động môi trường (ĐTM) của dự án Trung tâm nhiệt điện Duyên Hải- cụ thể là 2 nhà máy Duyên Hải I, Duyên Hải III.
Báo cáo đánh giá tác động môi trường kiểu chiếu lệ…
Theo PGS.TS Lê Anh Tuấn, báo cáo của 2 nhà máy (Duyên Hải I, Duyên Hải III), thiếu các điều tra chi tiết hiện trạng hệ sinh thái tự nhiên, tài nguyên sinh vật, đặc biệt nguồn thủy sản tự nhiên và thủy sản nuôi trồng.
Dự án cũng không có những giải pháp cụ thể giảm thiểu tác động lên hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển và nguồn sinh kế của cộng đồng. Không có kế hoạch theo dõi các tác động của nhà máy lên sinh thái, động thực vật và môi trường cảnh quan.
Đặc biệt, trong khi khói bụi từ đốt than đá là loại ô nhiễm độc hại gây chết người cao nhất, thì các đánh giá ô nhiễm không khí từ vận hành nhà máy đều dựa vào mô hình (MIKE, Steam – Porf models of Thermal flow) nhưng không có cơ sở kiểm chứng (verification) độ chuẩn xác của mô hình trong điều kiện địa phương. Tính toán phát tán khói bụi lấy từ số liệu gió (độ cao 10m) trong khi thực tế ống khói nhà máy cao 210m nhưng không có ngoại suy khoa học.
PGS.TS Lê Anh Tuấn
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, cố vấn chương trình “Sự tham gia của cộng đồng trong đánh giá tác động môi trường - từ chính sách đến thực tiễn” của GreenID, đã ghi nhận chi tiết: Các mô hình phát tán khói bụi trong các báo cáo ĐTM dựa vào số liệu gió trung bình tháng về vận tốc và hướng gió, với số liệu trước 2010.
Điều này có thể dẫn đến lỗi vì sự bất thường của gió hiện nay tạo ra sự khác biệt so với trung bình trước đây. Ngoài ra, dữ liệu được lấy từ TP.Trà Vinh chứ không phải huyện ven biển Duyên Hải. Số liệu lấy ở độ cao 10m đem áp dụng cho ống khói nhà máy cao 210m mà không có hiệu chỉnh là không đúng. Ngoài ra, báo cáo ĐTM không xem xét gió chướng thổi ngược hướng dòng chảy sông Tiền, sông Hậu và gió Đông Bắc có thể mang khói bụi từ nhà máy vào đất liền.
Trong khi ĐTM khẳng định tiếng ồn và độ rung khi vận hành nhà máy là không đáng kể thì trên thực tế tiếng ồn của nhà máy là một dạng “tra tấn” âm ĩ cho cộng đồng chung quanh. Cộng đồng địa phương cho biết họ bị ảnh hưởng rất lớn bởi âm thanh rất to trong quá trình vận hành thử của nhà máy Duyên Hải 3 vào tháng 7.2016 khoảng 4 lần ban ngày và 4 lần ban đêm, mỗi lần kéo dài 5 phút, làm người dân mất ngủ kể từ ngày 18.7.2016.
Ngoài những dự báo về ô nhiễm, báo cáo ĐTM dự án đã không đánh giá các tác động lên nông nghiệp và thủy sản trong vùng trong khi trên thực tế đất nông nghiệpvà ao nuôi thủy sản trong vùng đang bị bỏ hoang hoặc không còn sử dụng có năng suất nữa.
“Toàn bộ hệ sinh thái rừng ngập mặn ở khu vực nhà máy nhiệt điện bị hủy diệt và nguồn thủy sản ven bờ biển suy giảm nghiêm trọng. Người dân địa phương cho biết gần như không còn cá để đánh bắt ở đây.
Thực tế, gần như toàn bộ sản xuất nông ngư nghiệp chung quanh nhà máy đều bị tê liệt do thiếu nguồn nước sạch. Người dân trong cộng đồng bức xúc và lo âu tương lai của gia đình họ. Tham vấn cộng đồng không có ý nghĩa gì với người dân ở đây” - PGS.TS Lê Anh Tuấn, nhấn mạnh.
Thạc sĩ Thiệncho biết: “Nhà đầu tư chỉ gửi văn bản đến UBND và MTTQ xã.Cộng đồng địa phương không được tham vấn về tác động của nhà máy. Vì vậy, không ngạc nhiên là UBND xã và UBMTTQ xã đều bày tỏ ủng hộ dự án vì đã có phê duyệt quy hoạch của cấp trên.
Trong báo cáo ĐTM tính toán rằng vùng tác động là từ 2.656 đến 2.712 mét đến ống khói (xã Long Khánh, xã Đông Hải, và một phần xã Dân Thành trong mùa khô) nhưng xã Long Khánh không được tham vấn”.
Khe hở lớn?
Theo ghi nhận của thạc sĩ Thiện, cả 2 nhóm thực hiện ĐTM của Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải I và Duyên Hải III đều do đại diện của nhà đầu tư làm lãnh đạo. Ngoài ra, cả 2 báo cáo ĐTM đều không được bình duyệt (peer review) độc lập bởi bên thứ ba. 2 yếu tố này có thể dẫn đến mâu thuẫn lợi ích và thiên lệch về hướng biện minh cho dự án và đánh giá thấp tầm quan trọng của tác động của dự án.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện
Cụ thể, ngay chương đầu tiên, báo cáo ĐTM biện minh cho dự án bằng việc dẫn Quyết định 10/2007/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển điện quốc gia đến 2015 và tầm nhìn 2025 rằng nhu cầu điện của quốc gia được dự báo sẽ tăng 17% mỗi năm trong kịch bản thấp và 20% mỗi năm trong kịch bản cao. Kịch bản cao là kịch bản được lựa chọn.
Và ĐBSCL có nhu cầu điện cao trong khi năng lực đáp ứng nhu cầu điện tại địa phương thấp. Đồng thời, ĐBSCL không có tiềm năng thủy điện. Mục tiêu của dự án là nhằm đa dạng hóa nguồn điện để cải thiện an ninh năng lượng cho ĐBSCL.
Như vậy, báo cáo ĐTM cho rằng dự án là phải làm, không cần bàn cãi gì thêm và cũng không cần tìm phương án thay thế. Vì vậy, không ngạc nhiên khi ở cuối báo cáo, báo cáo kiến nghị các cơ quan thẩm quyền sớm phê duyệt dự án để đảm bảo tiến độ.
Vấn đề đáng chú ý, mặc dù Trung tâm nhiệt điện Duyên Hải là một phức hợp gồm 4 nhà máy điện than lớn với những công trình kèm theo như 3 cảng than và 1 cảng tổng hợp, có thể có tác động tích lũy lớn của tất cả công trình này, nhưng không có đánh giá môi trường chiến lược hoặc đánh giá tác động tích lũy đối với quy hoạch chung của trung tâm điện lực để giúp lãnh đạo cấp cao ra quyết định ở tầm chiến lược một cách sáng suốt.
“Không có đánh giá môi trường chiến lược, các dự án có tác động lớn tới môi trường thường được chấp nhận và phê duyệt chỉ dựa trên cơ sở kinh tế”, ông Thiện, nhận định.
Ông Thiện cũng lưu ý các báo cáo ĐTM không hề đề cập việc đốt một lượng than cực lớn sẽ thải ra một lượng lớn CO2, tăng nhiệt độ không khívà hiệu ứng khí nhà kính, là nguyên nhân chính của biến đổi khí hậu và nước biển dâng và sự đốt không hết than sẽ tạo ra khói bụi gây ô nhiễm không khí.
Trong khi đó, theo bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Điều hành của GreenID, đến nay Việt Nam chưa có quyhoạch riêng về phát triển năng lượng điện của ĐBSCL.
Long Hồ