Việt Nam sản xuất, lắp ráp ô tô kém là vì đi sau khu vực?
Thị trường và chính sách - Ngày đăng : 17:33, 15/11/2016
Đã có sản phẩm ô tô xuất khẩu sang Lào, Campuchia
Theo một thống kê của Bộ Công Thương, tính đến năm 2015, ngành sản xuất ô tô có trên 400 doanh nghiệp, tập trung chủ yếu ở khu vực Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng Sông Hồng. Đa số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Tổng công suất lắp ráp thiết kế khoảng 460.000 xe/năm, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 47%, doanh nghiệp trong nước khoảng 53%.
Giai đoạn 2001-2014, tốc độ tăng trưởng bình quân của sản xuất lắp ráp ô tô khoảng 17%/năm. Tổng số lượng xe tiêu thụ ô tô năm 2010 là 184.813 xe, nhưng trong 3 năm liên tiếp 2011, 2012 và 2013 lần lượt giảm xuống 181.545 xe, 124.815 xe và 153.199 xe.
Chỉ đến năm 2014, 2015, lượng xe tiêu thụ mới tăng lên lần lượt là 241.178 xe và trên 350.000 xe.
Nguyên nhân theo Bộ Công Thương là do biến động của nền kinh tế và sự thay đổi của chính sách, đặc biệt các chính sách về thuế, phí là các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất cũng như tiêu thụ xe ô tô.
Tuy nhiên, đơn vị này cũng đánh giá thị trường ô tô hiện nay đã có sự tham gia tích cực và rộng rãi của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có một số công ty trong nước Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (Thaco), Công ty cổ phần Huyndai Thành Công..và các tập đoàn ô tô lớn trên thế giới (Toyota, Ford, Honda, Mitsubishi, ...).
Tổng năng lực sản xuất - lắp ráp ô tô khoảng 460.000 xe/năm, gồm hầu hết các chủng loại xe con (công suất khoảng 200.000 xe/năm), xe tải và xe khách (công suất khoảng 215.000 xe/năm).
Mặt khác, ngành ô tô đã có đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước và giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 100.000 lao động trực tiếp. Bước đầu tích luỹ được kinh nghiệm trong việc lắp ráp ô tô và sản xuất một số phụ tùng, linh kiện, tạo tiền đề quan trọng cho việc xây dựng và phát triển ngành sản xuất - chế tạo ô tô.
Cùng với đó, các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đáp ứng về cơ bản thị trường nội địa.
Cụ thể, xe tải đến 7 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45% đến 55%.
Một số loại sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ…
Sản xuất, lắp ráp kém là vì đi sau?
Bên cạnh những thành tích đạt được, Bộ Công Thương cũng nhận định ngành sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước vẫn còn nhiều tồn tại.
Cụ thể, tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi vẫn thấp, khi mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%, trong đó Thaco đạt 15-18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Inova, thấp hơn mục tiêu đề ra.
Nguyên nhân theo Bộ Công Thương là do đối với lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe chở người đến 9 chỗ ngồi, Việt Nam là nước đi sau trong khu vực (so với các nước như Thái Lan, Indonesia, Malaysia).
Trong khi đó, trước khi đầu tư dự án lắp ráp tại Việt Nam, các Tập đoàn ô tô lớn đều đã đầu tư các dự án sản xuất ô tô con có qui mô lớn trong khu vực. Công suất các dự án sản xuất ô tô con thường được tính toán cho thị trường khu vực, chứ không tính riêng cho quốc gia đặt nhà máy sản xuất. Thị trường xe con có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các Tập đoàn toàn cầu.
Bên cạnh đó, ngành công nghiệp hỗ trợ công nghiệp ô tô đã hình thành, nhưng mới chỉ sản xuất được một số ít chủng loại phụ tùng đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp như gương, kính, ghế ngồi, bộ dây điện, ắc quy, săm-lốp, sản phẩm nhựa... Chỉ một số ít doanh nghiệp đầu tư dây chuyền dập thân, vỏ xe.
Nguyên nhân được Bộ Công Thương lý giải là do dung lượng thị trường nội địa nhỏ, chỉ ở mức độ 200-300.000 xe/năm với nhiều mẫu mã, số lượng doanh nghiệp sản xuất - lắp ráp lớn (56 doanh nghiệp), nên thị phần của từng thương hiệu lại càng bị phân nhỏ.
Dung lượng nhỏ không đáp ứng được tiêu chí tính kinh tế theo quy mô trong sản xuất công nghiệp, cả trong việc lắp ráp xe, cũng như sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Hơn nữa, các nguyên vật liệu cơ bản như thép chế tạo, cao su, nhựa và chất dẻo phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
"Tất cả các điều đó làm cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất phụ tùng, linh kiện ô tô ít có lợi thế cạnh tranh do giá thành sản xuất cao.
Ngoài nguyên nhân chủ quan, trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp lắp ráp chưa quan tâm đến công nghiệp hỗ trợ, chưa tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng sản xuất", Bộ Công Thương đánh giá.
Mục tiêu phát triển xe dưới 9 chỗ giai đoạn 2025-2035
Trên cơ sở phân tích những ưu, nhược điểm của ngành công nghiệp ô tô trong nước, Bộ Công Thương định hướng cho giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 là tập trung vào phát triên các sản phẩm xe con phù hợp với người Việt Nam và xu hướng phát triển xe con của thế giới (xe thân thiện môi trường: eco car, hybrid…).
Bao gồm: Xe cá nhân, kích thước nhỏ, tiêu thụ ít năng lượng, thân thiện với môi trường và giá cả phù hợp với người tiêu dùng Việt Nam.
Đối với xe tải và xe khách, tập trung vào phát triển các chủng loại sản phẩm sản xuất trong nước có lợi thế và các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, nông thôn; các loại xe chuyên dùng, gồm có: xe tải nhỏ đa dụng phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn; xe khách tầm trung và tầm ngắn; xe chở bê tông, xi téc và đặc chủng an ninh - quốc phòng; xe nông dụng đa chức năng.
Về công nghiệp hỗ trợ, định hướng cho thời gian tới là tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp lớn nước ngoài trong việc sản xuất linh kiện và phụ tùng.
Trong đó tập trung vào các bộ phận quan trọng, hàm lượng công lượng công nghệ cao để phục vụ nhu cầu của thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu.
Cụ thể tỷ lệ giá trị sản xuất chế tạo trong nước đối với sản xuất ô tô: đến năm 2020, xe đến 9 chỗ đạt 30 - 40%, từ 10 chỗ trở lên đạt 35 - 45%, xe tải đạt 30 - 40%, xe chuyên dụng đạt 25 - 35%; đến năm 2025, xe đến 9 chỗ đạt 40 - 45%, từ 10 chỗ trở lên đạt 50 - 60%, xe tải đạt 45 - 55%, xe chuyên dụng đạt 40 - 45%; đến năm 2035, xe đến 9 chỗ đạt 55 - 60%, từ 10 chỗ trở lên đạt 75 - 80%, xe tải đạt 70 - 75%, xe chuyên dụng đạt 60 - 70%.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh sẽ trả lời chất vấn về công nghiệp ô tô
Theo lịch của Quốc hội, trong buổi chiều ngày 15.11, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh sẽ tiếp tụctrả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội về chính sách phát triển ngành ô tô theo định hướng đầu tư của Nhà nước và các cam kết hội nhập quốc tế.