Đại gia Lê Ân tố cáo cán bộ địa chính cất giấu văn bản, nhũng nhiễu
Theo dòng thời sự - Ngày đăng : 16:14, 24/11/2016
Ngoài ra, đạigia 79 tuổi này còn tố cáo ông Lê Văn Bình đã "cất giấu các bản chính giấy tờ liên quan hồ sơ đại diện VCSB trong quá trình giải quyết thủ tục xin cấp Giấy phép quyền sử dụng đất".
Lá đơn tố cáo cán bộ địa chính Lê Văn Bình của ôngLê Ân gửi Chủ tịch UBND TP.Vũng Tàu,Nguyễn Lập
Theođơn của ông Lê Ân,sự việc như sau:
Năm 1992, ông Lê Ân có nhận chuyển nhượng 12.012 m2 đất của họ tộc bà Nguyễn Thị Vịnh tại phường 3, TP.Vũng Tàu theo đúng quy định của pháp luật (được Phòng công chứng Nhà nước tỉnh BR-VT xác nhận ngày 2.9.1992).
Ngày 10.10.1993, UBND TP.Vũng Tàu giao trước cho ông Lê Ân sử dụng 7.492 m2 đất. Diện tích còn lại là 4.520 m2 đất có bà Lê Thị Cường tranh chấp.
UBND tỉnh có quyết định 71/QĐ-UBT ngày 17.1.1994 chia 3/7: bà Cường 3 phần là1.350 m2 đất, chủ đất 7 phần là 3.150 m2 đất. Quyết định này đãvi phạm luật đất đai, hơn nữa 12.012 m2 đất này đã chuyển nhượng cho ông Lê Ân vào ngày 2.9.1992.
Do đó, ông Lê Ân ủy quyền bà Vịnh khởi kiện UBND tỉnh ra tòa giải quyết. Tòa án tỉnh và Tòa án nhân dân Tối cao xét xử phúc thẩm tuyênhủy quyết định 71 của UBND tỉnh BR-VT tại bản án phúc thẩm số 06/HCPT ngày 23.3.1999. Như vậy, Tòa án đã công nhận 12.012 m2 đất tại đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 3, TP.Vũng Tàu thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của ông Lê Ân.
1/ Năm 2000, ông Lê Ân bị bắt phục vụ điều tra vụ án xảy ra tại VCSB. Bản án số 1366/PTHS ngày 5,6.8.2003, Tòa án nhân dân Tối cao xét xử phúc thẩm vụ án VCSB, tuyêncác bị can về tội cố ý làm trái, riêng ông Lê Ân bị phạt 12 năm tù, các bị can khác từ 4 đến 9 năm tù và phải đền cho VCSB: 21.316.800.000 đồng (hơn 21 tỉđồng). Đối với 12.000 m2 đất của cá nhân Lê Ân tại đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P.3, TP.Vũng Tàuđã được Tòa án tuyêngiao cho ngân hàng bán phát mãi đền bù về phần dân sự cho các bị can trong vụ án. Nếu không đủ thìcác bị can đền bù cho đủ số tiền tòa đã tuyên. Vụ án VCSB không có“khách thể bị xâm hại”, ôngLê Ân khiếu nại chứng minh mình vô tội, kết thúc điều tra, Chính phủ cho về. Riêng các bị can khác phải hết hạn tù mới được về.
Ngày 30.12.2004, Thi hành án tỉnh BR-VT có văn bản số: 588/THAvề việcđề nghị hỗ trợ công tác Thi hành án, có gửi choUBND TP.Vũng Tàu có nội dung: Các tài sản nhà, đất được tuyên trong bản án dùng để đảm bảo thi hành án có 1,2 ha đất Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 3, TP.Vũng Tàu.Cục Thi hành án dân sự tỉnh phát hiện 4.520 m2 đất (trong 12.000 m2 đất) UBND tỉnh BR-VT đã có Quyết định 2581 thu hồi giao cho bà Cường sử dụng mặc dù bà Cường đã chết trước đó. Sau đó, Hội đồng Thanh lý VCSB làm đơn khiếu nại và được UBND tỉnh ra văn bản số: 8043/UBND-VP ngày 4.12.2007 gửi Chủ tịch UBND TP.Vũng Tàu, trong đó chỉ đạo: “Đình chỉ các công trình trên lô đất chờ thi hành bản án 1366/PTHS năm 2003”; yêu cầu Chủ tịch UBND TP.VT thực hiện và báo cáo UBND tỉnh và trả lời cho ông Lê Ân biết.
Phiếu nhận đơn thư của ông Lê Ân về việc tố cáo ông Lê Văn Bình, cán bộ địa chính phường 3, TP.Vũng Tàu của Thành uỷ Vũng Tàu
2/ Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh, ngày 3.1.2008, UBND TP.Vũng Tàu có văn bản số: 06/UBND-TNMT gửi UBND phường 3 vớinội dung: Căn cứ chỉ đạo của UBND tỉnh, yêu cầu chủ tịch UBND phường 3 chỉ đạo tiến hành đình chỉ ngay việc xây dựng trên lô đất trước đây bà Lê Thị Cường chuyển nhượng cho Công ty TNHH Kim Minh (hiện là tài sản kê biên) chờ thi hành bản án 1366/PTHS, đồng thời yêu cầu UBND phường 3 tạm ngưng mọi thủ tục hành chính về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp... đối với lô đất trên.
Mặc dù đã có văn bản của UBND tỉnh và UBND TP.Vũng Tàu nêu trên, nhưng ông Lê Văn Bình, cán bộ địa chính của UBND phường 3 lại cố ý “cất giấu” các văn bản chỉ đạo này và cùng với ông Tâm, Phó chủ tịch UBND phường 3 thực hiện hành vi trái pháp luật là xác nhận lô đất nêu trên không có tranh chấp để Văn phòng đăng ký QSD đấtdo bà Vũ Thị Kim Cúc ký ngày 22.2.2011, cho phép chuyển nhượng đất của Lê Ân cho ông Diệp Hò sử dụng.
Sau khi ông Lê Ân phát hiện, tố giác, các cơ quan thông tấn báo chí đã tiến hành điều tra, đăng ký làm việc với Bí thư Thành ủy và Hội đồng nhân dân thành phố Vũng Tàu… Ông Lê Văn Bình một mựcchốiUBND phường 3 không nhận được văn bản này. Qua xác minh, ông Lê Ân được biếtông Nghĩa,nguyên là cán bộ địa chính phường 3, đãnhận và giao lại cho ông Bình và ông Bình đang cất giấu văn bản 06/UBND-TNMT ngày 3.1.2008 của UBND TP.Vũng Tàu. Đến lúc này ông Bình mới tự đưa ra.
Lá đơn tố cáo cán bộ địa chínhLê Văn Bình của đại gia Lê Ân gửi Chủ tịch UBND TP.Vũng Tàu
Khi tiếp xúc với đại diện các cơ quan báo chí, ông Bí thư Thành ủy Vũng Tàu cũng cho rằng việc cho chuyển nhượng đất và cấp phép xây dựng 2 kho hàng trên đất của ôngLê Ân để thi hành án đã có chỉ đạo của UBND tỉnh, UBND TP.Vũng Tàumà vẫn cho chuyển nhượng là việc làm sai trái nghiêm trọng. Bí thư cam kết với báo chí sẽ xử lý đến nơi đến chốn việc sai trái này.
Về giấy phép xây dựng số: 337/GPXD ngày 21.3.2011 cấp cho ông Diệp Hò do ông Trương Văn Trí – Phó chủ tịch UBND TP.Vũng Tàuký hoàn toàn khách quan. Do đó, HĐTL VCSB là bên bị hại có đơn xin không kiểm điểm, kỷ luật bất cứ ai trong UBND TP.Vũng Tàu mà chỉ quy trách nhiệm cho cán bộ địa chính là ông Lê Văn Bình và ông Tâm, Phó chủ tịch UBND phường 3, phụ trách đất đai tại địa bàn. Việc tranh chấp không thi hành bản án đượcông Lê Ân kiện ra tòa án giải quyết. Lãnh đạo thành ủy, Chủ tịch UBND TP.Vũng Tàuđồng ý và các báo cũng đồng tình, mọi việc tạm dừng tại thời điểm đó.
3/ÔngLê Ân khởi kiện UBND tỉnh ra Tòa án tỉnh BR-VT yêu cầu hủy bỏ Quyết định hành chính số: 2581/QĐ-UB ngày 21.5.2004. Ngày 17.12.2013, Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT xét xử và tuyên tại Bản án số: 09/2013/HC-ST: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Ân. Hủy quyết định số 2581/QĐ-UB ngày 21.5.2004 của UBND tỉnh BR-VT về việcthu hồi, hủy bỏ thay thế quyết định 71/QĐ- UBT ngày 17.1.1994 của UBND tỉnh giải quyết tranh chấp đất giữa bà Lê Thị Cường và bà Nguyễn Thị Vịnh; Buộc cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Sau khi UBND tỉnh BR-VT kháng nghị. Ngày 6.5.2014, Tòa án nhân dân Tối cao tại TP.HCM đã tiến hành xét xử phúc thẩm, ra Quyết định số: 62/2014/HCPT-QĐ đình chỉ xét xử phúc thẩm và tuyên: Bản án hành chính sơ thẩm số: 09/2013/HC-ST ngày 17.12.2013 của Tòa án tỉnh BR-VT có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Cục thi hành án tỉnh có văn bản số: 539/CTHA ngày 19.7.2015, về việc cấp giấy chứng nhậnQSDđất gửi UBND TP.Vũng Tàu có nội dung: Ông Lê Ân được lập thủ tục đề nghị UBND TP.Vũng Tàutheo số liệu đo đạc lại: 7.738,2 m2 đất không có tranh chấp (ký hiệu lô A) theo sơ đồ vị trí do Trung tâm kỹ thuật TNMT tỉnh lập ngày 14.8.2013. Theo trưng cầu đo vẽ của Tòa án tỉnh BR-VT, có mời: đại diện UBND tỉnh; UBND TP.Vũng Tàu; UBND phường 3; Thi hành án dân sự tỉnh, nguyên chủ đất bà Nguyễn Thị Vinh; HĐTL VCSB và các chủ đất liền kề tham gia, ông Lê Văn Bình,đại diện phường 3 chỉ ranh và ký vào biên bản tại hiện trường. Sau khi ông Lê Ân được cấp Giấy chứng nhận QSDđất đề nghị Văn phòng đăng ký QSD đất TP.Vũng Tàucho Cục thi hành án dân sự được nhận Giấy chứng nhậnQSD đất của ông Lê Ân để tổ chức thi hành án.
4/Ông Lê Ân căn cứ văn bản số 539 đã nộp bộ hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận QSD đất theo cơ chế một cửa của UBND TP.Vũng Tàu, ngày nhận là 29.7.2015, hẹn trả hồ sơ ngày 29.9.2015. Tuy nhiên, đến tháng 10.2016 vẫn chưa cấp Giấy chứng nhậnQSD đất và cũng không cho biết bất cứ lý do gì!
Do vậy, HĐTL VCSB yêu cầu ông Lê Ân nhận lại hồ sơ về Cục thi hành án, VCSB và ông Lê Ân phối hợp giải quyết. Bộ hồ sơ giao lại cho ông Lê Ân thiếu 6 văn bản (5 bản chính, 1 bản sao) ông Lê Ân khiếu nại vì hồ sơ Nhà nước nhận quản lý, lưu giữ, không thểmất được. Qua 3 lần họp, lần thứ 3 ông Lê Ân yêu cầu mời ông Bình,địa chính phường 3 họp vì các văn bản mất có ông Bình ký tên xác nhận tại thực địa.
Các thành viên dự họp nhất trí vì bộ hồ sơ ông Bình nhận đầu tiên đưa về phường 3, sau đó mới trả lại. Ông Bình đến dự, ông Lê Ân yêu cầu ông Bình cho biết tại sao nhận hồ sơ đủ, trả mất hồ sơ thiếu 6 văn bản, ông Bình xác nhận có giữ lại 1 bản án có sao y (về nguyên tắc bản án chỉ có một bản chính) sao y như bản chính ông lấy làm sao xử lý hồ sơ được. Ông Bình trả lời quanh co bỏ về không kết thúc biên bản cuộc họp được.
Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai có văn bản số: 3285/GXN-CNVPĐK ngày 13.10.2016 xác nhận gửi cho ông Lê Ân có nội dung còn thiếu 4 giấy bản chính không tìm được, và có nội dung hồ sơ sau khi tiếp nhận chuyển cho UBND phường 3 ông Bình nhận hồ sơ đầu tiên để xem xét, các giấy mất có ông Bình ký tên (trong văn bản xác nhận có nêu mới tìm được 2 văn bản không cho biết bộ phận nào lấy cắp).
Ông Lê Ân kết luận: "Với các nội dung tố cáo từng thời kỳ nêu trên là đủ chứng cứ kết luận ông Lê Văn Bình cố ý làm trái, cất giấu văn bản chỉ đạo của UBND TP.Vũng Tàuđể trục lợi qua việc xác nhận chuyển nhượng đất của tôicho ông A Hò ngày 22.2.2011. Bà Cúc, ông Tâm bị thay đổi làm việc ở bộ phận khác trong khi ông Lê Văn Bìnhvẫn được ung dung. Nay ông Bình tiếp tục cất giấu các hồ sơ bản chính về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi để gây nhũng nhiễu và nhiều lần hăm doạ sẽ không bao giờ cấp quyền sử dụng đất cho tôi!".
"Kính đề nghị Chủ tịch UBND TP.Vũng Tàuchỉ đạo thanh, kiểm tra và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với cán bộ có hành vi vi phạmđể bảo đảm kỷ cương pháp luật", ông Lê Ân yêu cầu.
Dương Cầm