Hiệu trưởng Harvard: 'Tăng cường hợp tác giáo dục, nghiên cứu với Việt Nam'

Khoa học - công nghệ - Ngày đăng : 13:13, 23/03/2017

Trong chuyến làm việc tại Việt Nam, Hiệu trưởng Đại học Harvard Drew Gilpin Faust đã có buổi thăm và làm việc với Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG TP.HCM).

Trong buổi họp báo sau khi thuyết trình trước Đại học Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG TP.HCM) với chủ đề “Cuộc chiến đã qua đi: Hồi ức và bài học lịch sử” bà Faust đã trao đổi về tương lai hợp tác học thuật giữa hai nước cũng như vấn đề số lượng du học sinh Việt Nam tại Đại học Harvard và vấn đề học bổng tại ngôi trường danh giá này.

"Tôi rất vinh dự khi ghé thăm và có buổi thuyết trình tại Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG TP.HCM). Tôi là một nhà sử học nên rất hứng khởi khi được phát biểu tại ngôi trường này", Giáo sư Faust chia sẻ.

"Trước khi tôi đọc bài thuyết trình sáng nay, tôi đã có buổi làm việc rất tuyệt vời với những lãnh đạo của ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn và ĐHQG TP.HCM. Chúng tôi đã thảo luận cởi mở về nhiều vấn đề trong có mối quan hệ hợp tác giữa Harvard và ĐHQG", bà Faust vui vẻ nói.

Đại diện đoàn Đại học Harvard và ĐHQG TP.CHM chụp hình lưu niệm - ảnh Thăng Long

Theo Giáo sư Faust thì cơ hội hợp tác giữa trường của bà cũng như những học giả Mỹ với Việt Nam không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực nghiên cứu về Việt Nam mà còn về nhiều vấn đề khác. Hiệu trưởng Harvard nói bà "hy vọng sẽ có những hoạt động hợp tác chung" với ngành giáo dục Việt Nam.

Giáo sư Faust cho biết Đại học Harvard đang thực hiện rất nhiều nghiên cứu tại Việt Nam, đặc biệt là Đồng bằng Sông Cửu Long.

Về vấn đề du học sinh Việt Nam, bà Faust cho biết số học sinh quốc tịch Việt Nam tại trường của bà hiện tại là 16 người. Giáo sư Faust mong muốn số lượng du học sinh này sẽ tăng trong tương lai.

Hiệu trưởng Đại Học Harvard cũng cho biết thêm là trường của bà cấp học bổng dựa trên năng lực của ứng viên và không hề có sự phân biệt quốc tịch, giới tính... mọi sinh viên, nghiên cứu sinh đều có cơ hội được học bổng như nhau.

Bài phát biểu "Cuộc chiến đã qua đi: Hồi ức và bài học lịch sử" của giáo sư Faust

Những địa danh không ngừng vang vọng

Trước khi trở thành Hiệu trưởng Đại học Harvard, tôi là một học giả và giảng viên lịch sử trong suốt hơn ba mươi năm. Vì vậy, tôi đặc biệt vui mừng được có mặt tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, một trung tâm nghiên cứu lịch sử hàng đầu của Việt Nam.

Việc có mặt tại đây, ở đất nước các bạn, đối với tôi mang rất nhiều ý nghĩa, bởi vì nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng của hai quốc gia đã quyện chặt vào nhau và ảnh hưởng tới tất cả chúng ta.

Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước theo cách nói của các bạn -và “Chiến tranh Việt Nam” theo cách gọi của chúng tôi -đã mãi mãi định hình thế hệ chúng tôi, những người trưởng thành trong thập niên 1960 - 1970.

Dù rằng suốt những năm tháng đó, tôi chưa từng vượt 8000 dặm để đặt chân đến nơi này, nhưng những địa danh như Khe Sanh, Pleiku, Ấp Bắc, Điện Biên Phủ, Vịnh Bắc Bộ, Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn, Hà Nội luôn không ngừng vang vọng trong tâm trí tôi trong suốt mấy thập kỷ qua.

Tôi đã hằng mong ít nhất một vài địa danh trong số này không chỉ dừng ở con chữ. Các bạn có một khẩu hiệu nhắn gửi khách du lịch rằng “Việt Nam là một đất nước chứ không phải một cuộc chiến tranh”.

Giống như rất nhiều người Mỹ khác từng đến đây, tôi vẫn hằng mong đến một ngày nào đó, Việt Nam trong tâm trí tôi không phải tên gọi của một cuộc xung đột bất ngờ ập đến với thế hệ chúng tôi, mà là một quốc gia và xã hội với tất cả sự phức hợp, vẻ đẹp, lịch sử, sự sống động và triển vọng của nó.

Ám ảnh, cả lúc tỉnh lẫn mơ

Và không hiểu sao, dường như đối với tôi, tìm hiểu đất nước của các bạn trở thành điều cần thiết để hiểu chính đất nước của tôi.

Thanh niên trai tráng trong thế hệ chúng tôi đã phải đối diện với giấy gọi nghĩa vụ quân sự, khiến nhiều người phải đấu tranh nội tâm xem họ có nên tuân thủ pháp luật, phụng sự cuộc chiến mà họ cho rằng vừa không khôn ngoan vừa bất chính.

Đối với lớp phụ nữ trẻ như tôi thời bấy giờ, tình thế tiến thoái lưỡng nan đỡ mang tính trực diện cá nhân hơn, nhưng nó thôi thúc chúng tôi đặt câu hỏi nghi ngờ về quốc gia của mình, về nên dân chủ và về tính nhân văn của chúng tôi.

Michael Herr, một nhà báo Mỹ chuyên viết về cuộc chiến này, đã từng viết rằng Việt Nam là những gì tất cả chúng tôi đã có thay vì một tuổi thơ hạnh phúc.

Ở Harvard, hằng năm cứ đến tháng 5 là hàng trăm cựu sinh viên sẽ về lại trường để kỷ niệm 50 năm ngày ra trường của họ.

Đây là một nghi lễ quan trọng, và vào mùa xuân này, một sự kiện đặc biệt sẽ diễn ra trong khuôn khổ các buổi lễ.

Các thành viên của khóa 1967 -cả nam và nữ -sẽ dành một phần thời gian để cùng nhau tưởng nhớ lại cách thức cuộc chiến đã định hình những tháng năm đại học của họ, và thảo luận xem “Chiến tranh Việt Nam” đã ảnh hưởng đến họ hơn nửa thế kỷ ra sao.

Một thành viên khóa này từng là lính thủy đánh bộ đã viết “rất nhiều người thế hệ tôi… đã phải có những lựa chọn về Việt Nam khiến chúng tôi bị ám ảnh suốt quãng đời còn lại của mình, cả lúc tỉnh cũng như khi mơ”.

Tôi không phải là thành viên của khóa sinh viên Harvard sẽ hội ngộ vào mùa xuân này, nhưng tôi cùng trang lứa với họ, và cũng như họ, tôi đã bị định hình bởi chiến tranh Việt Nam theo những cách mà đến tận bây giờ tôi vẫn chưa hoàn toàn thấu hiểu.

Nhưng một ảnh hưởng mà tôi có thể xác định rõ ràng là về công việc của tôi với tư cách một sử gia.

Việc trưởng thành trong thập niên 1960 đã tạo ra trong tôi sự cuốn hút dai dẳng với chiến tranh, với cách mà những đòi hỏi khủng khiếp của nó có thể nhào nặn các cá nhân và xã hội, với sự khúc xạ không tránh khỏi của quan điểm và lý tưởng chiến tranh, với những áp lực tột cùng của nó.

Chiến tranh có thể ví như “lửa thử vàng” thuần chất, đối với mỗi cá nhân cũng như cho toàn xã hội.

Di sản cho hiện tại

Ngày nay, hàng năm Hoa Kỳ chi hơn 100 triệu USD cho nỗ lực tìm kiếm và nhận dạng những người mất tích trong Chiến tranh thế giới thứ II, Chiến tranh Hàn Quốc và Chiến tranh Việt Nam.

Tôi tin rằng các bạn đều rất quen thuộc với hoạt động tích cực của MIA sau năm 1975. Nhưng sự thừa nhận rằng nước Mỹ có trách nhiệm phải giải trình và hồi hương - dù đã chết hay còn sống - mọi binh sĩ đang thực hiện nhiệm vụ chỉ mới bắt đầu gần đây.

Chỉ từ chiến tranh Hàn Quốc, Hoa Kỳ mới thiết lập chính sách nhận dạng và hồi hương mọi liệt sỹ. Phải đến Thế chiến thứ nhất binh sĩ mới bắt đầu đeo phù hiệu nhận dạng chính thức - cái mà ngày nay chúng ta gọi là thẻ bài quân nhân.

Hệ thống ghi sổ mồ mả trong quân đội bắt đầu xuất hiện vào cuối cuộc chiến, và khi chiến tranh kết thúc, chính phủ Hoa kỳ đã bắt đầu thiết lập hệ thống nghĩa trang quốc gia, một nghĩa vụ trọng đại của nhà nước để ghi nhận công lao của những người đã ngã xuống bảo vệ đất nước.

Hậu quả chiến tranh là tàn phá - con người bị thương và biến dạng; trẻ em trở thành mồ côi; tài sản và nguồn sinh kế bị phá hủy; kinh tế đảo lộn; dân chúng chia rẽ. Nhưng hậu quả không chỉ dừng lại ở cơ thể, mà còn nằm trong tâm hồn, thậm chí trong tâm hồn của những người sinh ra rất lâu sau khi tiếng súng đã tắt.

Đó là vì sao các thành viên Harvard niên khóa 1967, các ông bà nay đã ở độ tuổi 70, cảm thấy sự cấp thiết phải đối diện với những kinh nghiệm từ hơn năm thập kỷ trước, những ký ức của một thời khi “Việt Nam” đòi hỏi họ phải định nghĩa chính họ và quốc gia của họ.

Đó là vì sao tôi hết sức vui mừng cuối cùng cũng đã được đặt chân đến đất nước các bạn, bởi tôi cũng cùng thế hệ với họ.

“Tại sao lựa chọn chiến tranh? Tại sao anh phải viết về cuộc chiến?”, nhân vật Kiên trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh tự vấn. Ngay cả khi anh ta cố gắng hết sức để tìm một chủ đề khác, anh cũng “không thể thôi viết về chiến tranh”.

Cũng như anh, chúng ta viết, chúng ta trò chuyện và chúng ta ghi nhớ bởi chúng ta đều cố gắng để hiểu chiến tranh đã nhào nhặn chúng ta ra sao.

Việt Nam và Hoa Kỳ đã đối đầu nhau trong một cuộc chiến kéo dài và tàn phá nặng nề. Giờ đây, riêng cũng như chung, chúng ta đang đối diện với hậu quả của nó.

Trong nỗ lực này, lịch sử là điều không thể thiếu. Lịch sử giúp chúng ta đối diện với những vong hồn và ma quỷ mà bi kịch quá khứ để lại như một di sản cho hiện tại. Nó soi rọi những sự mù quáng và tàn bạo đã làm nên chiến tranh. Nó giúp chúng ta hình dung và đấu tranh cho hòa bình.

Thiên Hà - Thăng Long

Hà Ngọc Bách