Hyundai Thành Công kiến nghị miễn thuế để vực dậy ngành công nghiệp ô tô

Thị trường và chính sách - Ngày đăng : 15:05, 15/01/2018

Lo ngại ngành công nghiệp ô tô Việt Nam khó có thể tồn tại, duy trì và phát triển được theo định hướng và chiến lược, Hyundai Thành Công đã đưa ra hàng loạt kiến nghị miễn thuế đối với sản phẩm ô tô trước bối cảnh các hiệp định thương mại tự do có hiệu lực.

Báo cáo tại Hội nghị tổng kết Bộ Công Thương sáng 15.1, Tổng giám đốc Hyundai Thành Công - Lê Ngọc Đức đã đưa ra nhiều kiến nghị gỡ khócho ngành công nghiệp ô tô trong nước. Cụ thể, về ngắn hạndoanh nghiệp nàyđề nghị Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Tài Chính điều chỉnh, ban hành các chính sách liên quan đến thuế phí.

Trong đó, miễn thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) cho phần giá trị sản xuất trong nước áp dụng đối với sản phẩm ô tô. Theo Tổng giám đốc Hyundai Thành Công, đây là biện pháp đã được các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia, Indonesia,... hay Ấn Độ áp dụng từ khá lâu nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp trong nước đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm cũng như dễ dàng hơn trong việc tiếp cận đầu ra (mức giá bán cạnh tranh).

Hiện tại, tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm ô tô tại Việt Nam, ngoại trừ các loại xe tải dưới 7 tấn và xe khách từ 25 chỗ trở lên, còn khá thấp. Thực trạng trên sẽ rất khó để các sản phẩm sản xuất, lắp ráp trong nước có thể xuất khẩu sang các thị trường lân cận. Vì vậy, để cải thiện tình hình, giải pháp miễn thuế TTĐB cho phần giá trị sản xuất trong nước là giải pháp rất tối ưu. Các doanh nghiệp sẽ phải tự chủ động nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, không dừng ở việc lắp ráp đơn thuần, nếu muốn tiết kiệm chi phí trong dài hạn và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm.

Ngoài ra, miễn giảm thuế nhập khẩu nguyên, vật liệu cho các nhà sản xuất linh kiện đầu tư tại Việt Nam cùng với các cam kết của doanh nghiệp về đầu tư dài hạn, sản lượng và sử dụng nhân lực, chuyển giao công nghệ.

Theo ông Đức, giải pháp này sẽ giúp thu hút đầu tư từ các nhà sản xuất linh kiện trong và ngoài nước. Với việc được tối ưu hóa chi phí đầu vào, các nhà sản xuất linh kiện sẽ có thể cung cấp ra thị trường những linh kiện nội địa hóa với mức giá cạnh tranh hơn so với các linh kiện nhập khẩu. Từ đó, sẽ dễ dàng tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp ô tô toàn cầu, góp phần giảm chi phí sản phẩm xe sản xuất lắp ráp trong nước, nâng cao dung lượng thị trường, giúp các doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng trong nước tiếp tục mở rộng quy mô đầu tư và sản xuất trong nước.

"Với chính sách ưu đãi miễn giảm thuế linh kiện nêu trên kết hợp cùng với chiến lược chung của toàn ngành nhằm bảo hộ thị trường, cả hai yếu tố đầu vào và đầu ra đều đã được Chỉnh phủ hỗ trợ cho doanh nghiệp. Các hãng xe từ đó cũng sẽ có đủ tự tin để đầu tư sâu và rộng tại Việt Nam, phục vụ cho nhu cầu trong nước đang bùng nổ cũng như hướng tới mục tiêu xuất khẩu trong tương lai gần. Đây chính là cơ hội để các doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu", lãnh đạo Hyundai Thành Công cho hay.

Lãnh đạo công ty này cũng xin áp dụng bảo lãnh thanh toán thuế thời hạn 8 tháng thay vì 30 ngày như hiện hành. Phát hành bảo lãnh thanh toán thuế được ông Đức cho là tối ưu nhất trong trường hợp giúp doanh nghiệp chủ động được dòng tiền và đảm bảo triển khai đúng mục tiêu của chính sách là bảo hộ thị trường.

Tuy nhiên, hiện nay bảo lãnh thanh toán thuế chỉ có thời hạn tối đa là 30 ngày trong khi thời gian rà soát và hoàn trả thuế là sau mỗi 6 tháng (tối thiểu). Vì vậy việc áp dụng bảo lãnh thanh toán thuế trong trường hợp này là không khả thi. Để việc bảo lãnh thanh toán có hiệu quả, doanh nghiệp đề xuất nâng thời hạn bảo lãnh thanh toán thuế từ 30 ngày lên 8 tháng để đảm bảo giảm bớt gánh nặng về thủ tục hành chính cho doanh nghiệp.

Lý giải nguyên nhân dẫn đến việc xin các cơ chế ưu đãi trên, Tổng giám đốc Hyundai Thành Công cho biết hiện nay, ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường ô tô trong nước, có thể thấy rõ Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA) đang cho thấy tác động rõ rệt nhất. Với việc đưa các dòng thuế nhập khẩu ô tô về 0% trong năm 2018, các sản phẩm ô tô nguyên chiếc (CBU) sẽ được nhập khẩu từ ASEAN về Việt Nam với mức giá rất cạnh tranh khiến cho cơ hội của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp trong nước ngày càng bị thu hẹp. Cùng với đó là những khó khăn trong việc phát triển công nghiệp phụ trợ trong nước đòi hỏi mức đầu tư và sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp sản xuất nội địa.

Theo số liệu từ Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), năm 2017, toàn thị trường ô tô đạt doanh số 278.600 xe (bao gồm các dòng xe du lịch, xe tải, xe khách/bus và một số loại xe khác), giảm khoảng 9.3% so với năm 2016. Trong đó, các sản phẩm xe du lịch chiếm tỷ trọng 62% (tương đương với 173,485 xe), giảm 9.9% so với năm 2016; các dòng xe tải, xe khách/bus chiếm gần 35% (khoảng 99,082 xe) trong cơ cấu xe bán ra trong năm 2017.

Số liệu trên cho thấy năm 2017 là một năm nhiều khó khăn đối với các hãng xe khi nhu cầu thị trường có sự biến động so với giai đoạn tăng trưởng ổn định trước đó từ năm 2013 -2016. Nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ tâm lý chờ đợi của khách hàng về viễn cảnh thị trường năm 2018 với giá xe thấp hơn khi Hiệp định thương mại tự do AFTA có hiệu lực tối đa với mức thuế suất 0% cho các sản phẩm nhập khẩu trong nội khối ASEAN.

Trong khi đó, nền tảng sản xuất của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam hiện mới chỉ dừng lại ở mức lắp ráp CKD đơn giản, hoặc sản xuất các linh kiện còn ở quy mô rất nhỏ, rời rạc. Do đó, khi AFTA có hiệu lực hoàn toàn thì ngành công nghiệp ô tô Việt Nam rất khó có thể tồn tại, duy trì và phát triển được theo định hướng và chiến lược của Chính Phủ. Bên cạnh đó trong dài hạn, áp lực nhập siêu của nền kinh tế Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng, gây mất cân đối cán cân thương mại và bất ổn về kinh tế vĩ mô.

Thực tế hiện nay cũng chỉ ra một số hãng xe Nhật Bản với lợi thế về các cơ sở sản xuất tại ASEAN được phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia như: Thái Lan và Indonesia đã và đang mở rộng dải sản phẩm nhập khẩu. Điển hình là các mẫu xe như Fortuner (nhập khẩu từ Indonesia), Civic, Everest (từ Thái Lan), các mẫu xe bán tải như Ranger, Colorado, BT-50 (đa phần nhập khẩu từ Thái Lan)... Chỉ tính riêng trong năm 2017, tỷ trọng các sản phẩm nhập khẩu từ ASEAN đã tăng từ mức dưới 20% trong năm 2016 lên 62% trong năm 2017.

Số liệu đã cho thấy rõ xu hướng tăng trưởng rất nhanh của các sản phẩm CBU nhập khẩu từ ASEAN, và trong năm 2018 dự báo con số này sẽ tiếp tục tăng khi rất nhiều các sản phẩm mới đang được các hãng xe Nhật Bản lên kế hoạch nhập về như Wigo (từ Indonesia), CRV, Celerio (từ Thái Lan),... Việc này đặt ra thách thức đối với các sản phẩm lắp ráp, sản xuất trong nước sẽ phải đầu tư mạnh mẽ hơn cũng như tiết giảm chi phí tối đa để đảm bảo giá thành cạnh tranh.

Tuyết Nhung

tuyetnhung