TS Nguyễn Đức Thành: Đóng cửa thị trường xuất khẩu gạo là tình huống cực đoan
Chân dung và đối thoại - Ngày đăng : 15:55, 25/03/2020
Việt Nam từng đánh mất một cơ hội xuất khẩu gạo tốt.
Tổng cục Hải quan mới đây đã có văn bản yêu cầu các Cục Hải quan tỉnh/thành dừng đăng ký, tiếp nhận và thông quan đối với các lô hàng các loại gạo xuất khẩu dưới mọi hình thức kể từ 0 giờ ngày 24.3.
Tuy nhiên, ngay sau khi có yêu cầu dừng xuất khẩu gạo, Bộ trưởng Bộ Công Thương lại gửi công văn lên Thủ tướng, đề nghị cho tiếp tục xuất khẩu mặt hàng này.
Trả lời về kiến nghị này, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh cho biết, do dịch COVID-19, nhu cầu với một số mặt hàng thiết yếu nhu yếu phẩm, trong đó có gạo, đang tăng rất nhanh và đã bắt đầu xuất hiện nhu cầu tăng dự trữ lương thực để bảo đảm cuộc sống cho người dân.
Vì vậy, Bộ Công Thương đề xuất với Thủ tướng Chính phủ cân nhắc một số phương án, trong đó có phương án tạm giãn tiến độ xuất khẩu gạo, phương án nữa là xem xét cấp giấy phép xuất khẩu gạo.
Sau đó, Bộ nhận được ý kiến một số doanh nghiệp, địa phương về việc có thể có độ vênh nhất định giữa số liệu Bộ Công Thương có được với số liệu các địa phương, doanh nghiệp, đặc biệt là sản lượng vụ đông xuân tại Đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, Bộ đã báo cáo lại Thủ tướng cho phép kiểm tra lại một lần nữa số lượng tồn kho trong dân, số lượng tồn kho ở các doanh nghiệp, lượng hợp đồng xuất khẩu đã ký có thể không lớn như dự kiến. Sau khi báo cáo lại Thủ tướng chính phủ sẽ xem xét, quyết định.
Theo ông Khánh, trong trường hợp dịch kéo dài, các kịch bản về lương thực đã được Chính phủ tính toán kỹ, trong đó có có dự trữ quốc gia. Hơn nữa, vụ lúa của Việt Nam gieo trồng nhanh, trong thời gian ngắn có thể phục hồi đáp ứng yêu cầu. Trong điều kiện dịch bệnh kéo dài vẫn có thể đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, tuy nhiên tốc độ xuất khẩu phải kiểm soát nhất định. "An ninh lương thực phải đảm bảo đưa lên hàng đầu", ông Trần Quốc Khánh khẳng định.
Bình luận về vấn đề này, TS Nguyễn Đức Thành, thành viên Liên minh Chính sách Nông nghiệp Việt Nam cho rằng, 12 năm trước, thị trường gạo cũng có những biến động lớn về nhu cầu và giá cả khi giá gạo thế giới tăng cao từ đầu năm và đến khoảng tháng 4-5 thì giá tăng mạnh. Giá gạo thế giới tăng chóng mặt và nguy cơ thiếu hụt gạo hiện hữu toàn cầu.
Khi đó, Việt Nam đã vội vã đóng cửa thị trường xuất khẩu gạo để bảo vệ thị trường trong nước. Sau khi cơn sốt gạo qua đi, mọi việc trở lại bình thường, thậm chí giá gạo lại xuống thấp theo các chu kỳ lên xuống của ngành hàng nông nghiệp.
“Giới kinh doanh đánh giá Việt Nam đã đánh mất một cơ hội xuất khẩu gạo với khối lượng lớn và giá rất tốt. Sau này, nhiều chuyên gia cũng đánh giá rằng ở Việt Nam, gạo là mặt hàng mà nguồn cung có thể được bổ sung sau 3-4 tháng, nên việc lo sợ quá mức về thiếu hụt nguồn cung đã dẫn tới việc đánh mất cơ hội cho cả người sản xuất lúa gạo (nông dân) lẫn các nhà xuất khẩu”, ông Thành nói.
Trong thông báo ngày 23.3.2020, Chính phủ cũng có đề cập tới nguy cơ giá gạo tăng cao có thể đẩy lạm phát lên cao, gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Điều này dường như đã xảy ra vào năm 2008.
Tuy nhiên, ông Thành nhấn mạnh lạm phát phi mã của năm 2008 thực chất bắt nguồn từ chính sách tiền tệ sai lầm vào cuối năm 2007, do không trung hòa lượng USD đã được mua vào ồ ạt trước đó. Việc lạm phát tiền tệ là thùng dầu tạo nên ngọn lửa lạm phát 2008, chứ không phải giá gạo cao năm đó.
“Năm nay, nếu giả sử giá gạo tăng 30% liên tục trong nửa năm thì đóng góp của nó vào mức tăng CPI có lẽ chỉ khoảng 1,5%, hoàn toàn chấp nhận được trong bối cảnh lạm phát của Việt Nam được kiểm soát tương đối tốt trong những năm qua (chủ yếu do chính sách tiền tệ chặt chẽ)”, ông Thành nhận định.
Cấm xuất khẩu gạo có nhiều tác động xấu
Ông Thành cho rằng, vì gạo là mặt hàng Việt Nam có thể chủ động nguồn cung trong những chu trình ngắn hạn (3-4 tháng) nên khi nhu cầu lúa gạo thế giới đột ngột tăng cao, Việt Nam nên tranh thủ đón ít nhất là đợt sóng đầu tiên.
“Việt Nam nên bình tĩnh, chủ động với đợt sóng tăng giá/tăng lượng mua này và xuất khẩu gạo theo làn sóng đó để thu lợi nhuận. Giá cả và nhu cầu có thể tăng dần, thậm chí tăng mạnh, trong các tháng 4-5, chúng ta vẫn nên chủ động đi theo con sóng đó”, ông Thành nói.
Theo chuyên gia này, khi giá xuất khẩu tăng, giá gạo trong nước cũng có khuynh hướng tăng theo nhưng việc này cơ bản lợi nhiều hơn hại, vì tầng lớp được hưởng lợi căn bản vẫn là nông dân và ngành nông nghiệp. Các nhóm khác có thể bị thiệt vì giá gạo tăng lên, nhưng gạo chỉ chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ trong ngân sách của họ.
Theo ông Thành, nếu đến mùa sau, khi việc cung ứng gạo trong nước có dấu hiệu mất cân đối trầm trọng, đặc biệt với tình hình sản lượng giảm do điều kiện thời tiết (nhưng sản lượng này vẫn sẽ luôn luôn lớn hơn tổng lượng tiêu thụ nội địa), thì lúc đó mới cần cân nhắc điều tiết xuất khẩu.
“Tôi muốn nhấn mạnh là điều tiết xuất khẩu thôi, còn việc đóng cửa thị trường xuất khẩu là một tình huống cực đoan. Về nguyên tắc, do sản lượng gạo của nước ta luôn vượt quá cầu trong nước, nên việc đóng cửa thị trường xuất khẩu thực chất sẽ chắc chắn bảo đảm an ninh lương thực và bình ổn giá gạo, nhưng sẽ phải đối phó với vấn nạn xuất khẩu lậu hết sức mãnh liệt”, ông Thành cho hay.
Theo ông Nguyễn Minh Đức, chuyên gia pháp chế của VCCI, việc cấm xuất khẩu gạo có thể giúp giải quyết vấn đề an ninh lương thực trong ngắn hạn nhưng cũng có nhiều tác động xấu.
“Tác động đầu tiên là làm giảm giá lúa gạo trong nước, khiến người nông dân chịu thiệt hại còn người tiêu dùng thì lại được mua gạo giá rẻ. Tiếp đó là ảnh hưởng đến doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo khi mà không bán được hàng, mất hợp đồng với đối tác. Cuối cùng là ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế với các nước mua gạo và có thể sẽ bị trả đũa bằng cách khác”, ông Đức nói.
Theo chuyên gia này, biện pháp duy trì diện tích đất trồng lúa là biện pháp dài hạn nhằm bảo đảm cung lúa gạo luôn dư thừa. Nhưng cái gì thừa cũng đều rẻ mạt. Tương tự, việc duy trì diện tích trồng lúa lớn khiến nông dân thiệt hại còn công nhân, thị dân thì được hưởng lợi vì giá lúa gạo thấp.
Biện pháp dự trữ bắt buộc giúp bảo đảm an ninh lương thực, nhưng đổi lại là tốn kém chi phí lưu kho và tổn thất cả số lượng lẫn chất lượng gạo. Nhà nước hiện không chịu chi phí này mà bắt các doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải chịu thông qua quy định dự trữ lưu thông 5% sản lượng 6 tháng.
Lam Thanh