2 phương án về thời điểm khai tử sổ hộ khẩu giấy
Theo dòng thời sự - Ngày đăng : 14:22, 15/10/2020
Điều chỉnh quy định về xóa đăng ký thường trú
Tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5.2020), Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Cư trú (sửa đổi). Sau đó, đã có 54 Đoàn đại biểu Quốc hội gửi ý kiến góp ý. Sau khi tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo luật có 7 chương và 38 điều (giữ nguyên số chương và giảm 5 điều do với dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 9).
UBTVQH nhận thấy, việc các cơ quan, tổ chức, đơn vị yêu cầu công dân phải xuất trình các giấy tờ chứng minh nơi cư trú để làm cơ sở thực hiện các thủ tục hành chính hoặc giao dịch dân sự vẫn còn tương đối phổ biến trong thời gian qua. Do đó, dự thảo luật đã quy định cấm hành vi lạm dụng thông tin về nơi thường trú, nơi tạm trú để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân (khoản 2 Điều 7).
Đồng thời, cùng với việc thông qua luật này và tiến trình chuyển đổi số quốc gia, luật cũng đặt ra yêu cầu đối với Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan khác có liên quan cần khẩn trương sửa đổi các thủ tục hành chính theo hướng không yêu cầu công dân phải xuất trình giấy tờ xác nhận về cư trú, tạo thuận lợi tối đa cho người dân khi thực hiện các thủ tục, giao dịch và hạn chế việc sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện các thủ tục hành chính.
Về xóa đăng ký thường trú (Điều 24), xóa đăng ký tạm trú (Điều 29), UBTVQH cho hay việc xóa đăng ký thường trú nhằm ghi nhận chính xác tình trạng cư trú của người dân, bảo đảm thực hiện chặt chẽ công tác quản lý dân cư nói chung và quản lý về cư trú nói riêng.
Đối với trường hợp công dân đã vắng mặt tại nơi thường trú từ 12 tháng trở lên nhưng không đăng ký cư trú ở nơi ở khác, không khai báo tạm vắng thì không thể tiếp tục ghi nhận nơi đã đăng ký là nơi thường trú của người này để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, tránh tình trạng cư trú ảo; đồng thời cũng để người dân có ý thức hơn trong việc thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về cư trú.
Đối với các trường hợp đã bị xóa đăng ký thường trú do đi khỏi nơi cư trú quá lâu, khi trở về chỗ ở cũ sẽ được đăng ký thường trú lại theo quy định của luật này. Theo đó thủ tục đăng ký đã khá đơn giản, thuận tiện, nhất là đối với những người đã có thông tin được ghi nhận trước đó trên cơ sở dữ liệu về cư trú.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, UBTVQH đã cho rà soát toàn bộ các trường hợp cần xóa đăng ký thường trú để quy định phù hợp hơn như thể hiện tại Điều 24 của dự thảo Luật.
Theo đó, đã bổ sung thời hạn 12 tháng cho một số trường hợp để đủ thời gian ổn định, làm thủ tục đăng ký thường trú tại chỗ ở mới; bảo đảm cân bằng quyền lợi cho cả người đã đăng ký thường trú và người sở hữu chỗ ở; bỏ quy định về xóa đăng ký thường trú đối với người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở khác; bổ sung quy định yêu cầu cơ quan thực hiện việc xóa đăng ký thường trú phải ghi rõ lý do, thời điểm xóa đăng ký thường trú trong cơ sở dữ liệu về cư trú để làm rõ hơn nội dung của việc xóa đăng ký thường trú (khoản 3 Điều 24).
2 phương án về thời điểm khai tử sổ hộ khẩu
Nhiều ý kiến đề nghị trong Luật cần có một số quy định có tính chất chuyển tiếp phù hợp để bảo đảm sự thích ứng kịp thời của các cơ quan nhà nước có liên quan, tránh làm phát sinh thêm thủ tục, giấy tờ cho người dân.
Qua thảo luận, hiện vẫn còn 2 loại ý kiến về nội dung này như sau:
Đa số ý kiến đề nghị cho phép người dân được tiếp tục sử dụng dổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã được cấp cho đến hết ngày 31.12.2022 để chứng minh thông tin về nơi cư trú thay thế cho giấy tờ xác nhận về cư trú theo quy định của luật này khi thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch dân sự có yêu cầu thông tin về nơi cư trú.
Lý do là mặc dù việc chuyển sang phương thức quản lý cư trú mới là hết sức cấp bách và cần được thực hiện ngay từ thời điểm luật này có hiệu lực thi hành (1.7.2021), nhưng trong giai đoạn đầu, việc kết nối liên thông giữa các bộ, ngành, địa phương với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cư trú vẫn đang trong quá trình triển khai, hoàn thiện, thì người dân vẫn phải có giấy tờ nhất định để chứng minh về nơi cư trú của mình.
Nhằm tránh làm phát sinh thêm thủ tục, phiền phức cho người dân, tạo áp lực quá lớn cho các cơ quan quản lý thì việc cho phép người dân tiếp tục sử dụng sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã được cấp trước đây thay cho việc phải đến cơ quan công an để xin cấp giấy tờ xác nhận về cư trú như quy định của luật này khi thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự tại những nơi chưa thực hiện được việc kết nối liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là một giải pháp phù hợp và khả thi, tiết kiệm thời gian, chi phí cho cả cơ quan quản lý và người dân.
Sổ hộ khẩu, sổ tạm trú trong trường hợp này không được coi là công cụ quản lý cư trú như hiện nay mà chỉ đơn thuần là giấy tờ xác nhận nơi cư trú công dân. Ở những nơi đã hoàn thành việc kết nối liên thông, khai thác, sử dụng chung cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thì công dân được sử dụng số định danh cá nhân để xác định thông tin nhân thân, thông tin về nơi cư trú.
Theo đó, cơ quan nhà nước không được yêu cầu người dân phải nộp thêm giấy tờ xác nhận về cư trú khi thực hiện các thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, có ý kiến vẫn còn lo ngại rằng thời điểm 3.12.2022 có thể vẫn chưa bảo đảm để hoàn tất việc kết nối liên thông, chuyển đổi số đối với quản lý thông tin về cư trú trong toàn xã hội, nên cần kéo dài hơn nữa thời hạn này.
Một số ý kiến nhất trí với đề nghị của Chính phủ, không cần có quy định chuyển tiếp, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú hết giá trị kể từ thời điểm luật có hiệu lực thi hành là từ ngày 1.7.2021 bởi cho rằng phương thức quản lý cư trú mới là tiến bộ, cần được thực hiện ngay một cách đồng bộ.
Do ý kiến còn khác nhau nên UBTVQH xin phép thiết kế nội dung này thành 2 phương án tại khoản 3 Điều 38 của dự thảo Luật như sau:
Phương án 1: Có quy định chuyển tiếp, theo đó, kể từ ngày luật này có hiệu lực thi hành, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ xác nhận về cư trú theo quy định của luật này cho đến hết ngày 31.12.2022; thông tin về cư trú trong cơ sở dữ liệu về cư trú là thông tin gốc, cơ quan đăng ký cư trú sẽ không cấp mới, cấp lại sổ hộ khẩu, sổ tạm trú.
Phương án 2: Các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú vẫn có nguyên hiệu lực pháp luật. Sổ hộ khẩu, sổ tạm trú không có giá trị sử dụng trong các giao dịch, quan hệ pháp luật được xác lập mới kể từ ngày luật này có hiệu lực thi hành.