Nhìn thẳng vào những hạn chế của ĐBSCL 3 thập kỷ qua

Kinh tế - đầu tư - dự án - Ngày đăng : 21:18, 14/12/2020

Những vấn đề nhức nhối như biến đổi khí hậu, chất lượng giáo dục, tình trạng di cư, dân số…ở ĐBSCL được thể hiện rõ trong Báo cáo Kinh tế thường niên ĐBSCL năm 2020.

Chiều 14.12 tại Cần Thơ, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức lễ công bố Báo cáo Kinh tế thường niên ĐBSCL năm 2020. Báo cáo này do VCCI và Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright (FSPPM) thực hiện sau hơn 1 năm.

1(1).jpg
Một góc ĐBSCL nhìn từ trên cao - Ảnh: Thanh Nguyên

Báo cáo Kinh tế thường niên ĐBSCL lần đầu tiên được thực hiện bởi nhóm các chuyên gia kinh tế, chính sách hàng đầu Việt Nam dưới sự chủ trì, điều phối của VCCI và chịu trách nhiệm chuyên môn của FSPPM. Đây là báo cáo nghiên cứu trên phạm vi vùng kinh tế đầu tiên trong cả nước và ĐBSCL được chọn như là một sự điển hình về tính liên kết, sự nhất quán để hướng đến hình thành một thiết chế vùng kinh tế trong tương lai.  

Trong những thập niên qua, ĐBSCL đứng trước những thách thức lớn từ bên ngoài của biến đổi khí hậu như hạn mặn, sạt lở, ngập lụt và ô nhiễm môi trường gia tăng... Đến các vấn đề bên trong như chất lượng tăng trưởng giảm sút, lực lượng và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chưa cao, cấu trúc kinh tế chưa thực sự ổn định, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, năng suất lao động thấp, tình trạng di dân gia tăng… Đấy là những ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế xã hội mà ĐBSCL đang và sẽ phải đối mặt.

Trong khi đó, quan điểm khi nhìn nhận về ĐBSCL luôn gắn liền với những cụm từ trù phú, lợi thế tài nguyên, thiên nhiên ưu đãi, nguồn lao động dồi dào… nhưng thực tế quá trình phát triển trong hơn 2 thập niên qua cho thấy không là như thế nữa. Bên cạnh đó hạ tầng cơ sở mặc dù được đầu tư nhưng còn quá nhiều điểm nghẽn, nhất là giao thông kết nối. Thiếu quy hoạch đồng bộ và logistics yếu kém dẫn đến sự gia tăng chi phí trong các khâu của chuỗi giá trị sản xuất, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp và kinh tế toàn vùng.

2(1).jpg
Nước mặn đang xâm ngập vùng ĐBSCL - Ảnh: CTV

Về mặt xã hội, chất lượng giáo dục không theo kịp các vùng miền khác, tỷ lệ bỏ học cao và trình độ học vấn của người dân khá thấp. Lợi thế của các tỉnh Tây Nam Bộ là địa hình, thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu ôn hòa… nay đã không còn nữa do tác động từ thiên tai và con người. Những thế mạnh khác trước đây đã tạo được qua nỗ lực cải cách, cải thiện trong công tác điều hành kinh tế địa phương nay cũng đang mất dần so với các vùng kinh tế khác. Những thách thức và hạn chế trên đang đẩy vùng đồng bằng này vào tình thế hết sức nan giải và rất cần một nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện.

Không thể một vùng kinh tế với nhiều tiềm năng và đóng góp lớn như ĐBSCL cứ mãi manh mún và thiếu động lực phát triển như hiện nay, nên các chuyên gia kinh tế hàng đầu trong các lĩnh vực thể chế, chính sách, kinh tế, xã hội, quy hoạch, môi trường, giao thông… đã được mời cùng thực hiện báo cáo nghiên cứu đầy tâm huyết.

Báo cáo đã đúc kết thành tựu trong một thập niên qua và nêu bật những hạn chế trong quá trình phát triển, đồng thời phác họa những cơ hội và thách thức đang và sẽ diễn ra đối với ĐBSCL. Sau 1 năm hoạch định, ban biên soạn được hình thành và chủ đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển bền vững” được lựa chọn để làm tâm điểm và động lực phát triển kinh tế vùng ĐBSCL trong thời gian tới.

3(1).jpg
Đất đai đã giảm dần độ phì nhiêu - Ảnh: CTV

Kết quả nghiên cứu cho thấy kinh tế ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung đều chịu sự ảnh hưởng của kinh tế toàn cầu, nhất là dịch COVID-19. Riêng đối với ĐBSCL do hoạt động công nghiệp chưa phát triển, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, du lịch chủ yếu phục vụ khách trong nước nên tác động của dịch bệnh đến kinh tế ĐBSCL được đánh giá là nhẹ nhàng hơn so với các trung tâm công nghiệp, thương mại, và du lịch của cả nước.

Tuy vậy trong bối cảnh diễn biến dịch bệnh vẫn còn phức tạp và có thể kéo dài, ĐBSCL sẽ có thể phải đối diện một số hệ lụy tiêu cực, xuất phát từ vai trò thù cũng như cấu trúc nội tại của vùng. Vai trò đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia, việc ngừng xuất khẩu gạo có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào. Chính sách này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến giá thu mua nông sản và sinh kế của người dân ĐBSCL.

Về chuỗi cung ứng, xuất khẩu hàng hóa sẽ tiếp tục bị gián đoạn. Chi phí logistics vốn đã bị đánh giá là cao sẽ tăng thêm do phát sinh chi phí liên quan đến an toàn phòng chống dịch bệnh. Ngoài ra làn sóng hồi hương của người ĐBSCL đang lao động ở Đông Nam Bộ hay người đi xuất khẩu lao động có thể trở thành gánh nặng của vùng.

4(2).jpg
Cây trồng lạm dụng phân thuốc sâu nên ảnh hưởng tuổi thọ, chất lượng trái - Ảnh: CTV

Cùng với dịch bệnh, tình trạng hạn hán kéo dài, xâm  lấn mặn ngày càng nghiêm trọng làm môi trường kinh tế - xã hội trở nên bấp bênh, gánh nặng về tâm lý và kinh tế đối với cả doanh nghiệp, người dân và chính quyền trong vùng ngày càng lớn.

Một vấn đề được các chuyên gia rút ra là vai trò kinh tế của ĐBSCL đang giảm dần so với các vùng khác trong cả nước. Nghiên cứu cho thấy đóng góp của ĐBSCL vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong 3 thập kỷ qua giảm mạnh. Nếu so với TP.HCM thì vào năm 1990, GDP của TP.HCM chỉ bằng 2/3 so với ĐBSCL thì 2 thập niên sau, tỉ lệ này đã hoàn toàn đảo ngược và duy trì cho đến ngày hôm nay.

Góc nhìn khác, tăng trưởng GDP của ĐBSCL thấp hơn TP.HCM và Đông Nam Bộ là do ĐBSCL được giao sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước, vì vậy phải tập trung vào nông nghiệp và sản xuất lúa gạo, và kết quả là chậm chuyển dịch sang các ngành có năng suất cao hơn.

5.jpg

Di dân là câu chuyện nhức nhối của ĐBSCL. Tình trạng di cư của người dân đồng bằng về TP.HCM và miền Đông Nam Bộ đáng báo động. Kết quả là so với các vùng khác trong cả nước, ĐBSCL có tỉ lệ nhập cư thấp nhất, tỉ lệ xuất cư cao nhất, và do đó là vùng duy nhất có tỉ lệ tăng dân số là 0,0% trong giai đoạn 2009-2019.

Cơ cấu kinh tế của vùng là vấn đề cần quan tâm. Thập niên 2010-2019 chứng kiến sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế mạnh mẽ ở ĐBSCL. Tỉ trọng khu vực I đã giảm từ 39,6% trong năm 2010 xuống chỉ còn 28,3% trong năm 2019, nhanh hơn hẳn tốc độ dịch chuyển cơ cấu trong 2 thập niên trước đó. Tương tự như vậy, cơ cấu công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch vụ cũng đang thay đổi mạnh mẽ, hội tụ ngày càng gần hơn so với cơ cấu kinh tế của cả nước. Tuy nhiên, dư địa chuyển đổi cơ cấu không phải là vô hạn. Với đặc điểm tự nhiên vốn có, không thể và không nên yêu cầu ĐBSCL có cơ cấu kinh tế tương tự như cả nước.

Báo cáo cũng nhận thấy thành tích nổi bật của ĐBSCL trong 2 thập niên trở lại đây đó là kết quả giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Chính phủ ở ĐBSCL đã giảm từ mức rất cao là 36,9% vào năm 1998 xuống chỉ còn 12,6% vào năm 2010 và 5,2% vào năm 2016, và tỉ lệ này tiếp tục giảm trong giai đoạn 2016-2019. Tỷ lệ nghèo của ĐBSCL luôn thấp hơn so với mức trung bình của cả nước chứng tỏ lợi ích của tăng trưởng được chia sẻ rộng rãi, và người nghèo cũng đã được hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế chung của toàn vùng.

Năng suất lao động (NSLĐ) là câu chuyện chính trong nghiên cứu đánh giá về năng lực cạnh tranh và ban biên soạn đã chỉ ra NSLĐ của ĐBSCL được xác định là khá thấp. Những nguyên nhân trực tiếp như năng suất công nghiệp phụ thuộc vào đầu tư của khu vực FDI, mà đây chính là một điểm yếu cố hữu của ĐBSCL. Hoạt động sản xuất công nghiệp quan trọng nhất ở ĐBSCL là chế biến thủy hải sản, thế nhưng tốc độ tăng trưởng của hoạt động này lại khiêm tốn và nhiều yếu tố khác khiến công nghiệp ĐBSCL khó phát triển.

Các hoạt động sản xuất công nghiệp còn lại khá trầm lắng, nếu có tăng trưởng thì chủ yếu tập trung vào các hoạt động chế tạo, chế biến thâm dụng lao động với giá trị thấp. Đồng thời ngành công nghiệp đang bị cản trở bởi nút thắt nghiêm trọng về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông kết nối với Đông Nam Bộ.

Một lưu ý khác được đưa ra, đó là ĐBSCL hiện là “vùng trũng” về đô thị hóa ở Việt Nam. Dân số vùng ĐBSCL gần như không đổi so với trước đó 10 năm. Số lượng di cư ròng khỏi ĐBSCL trong thập niên vừa qua là gần 1,1 triệu người, lớn hơn dân số của một số tỉnh trong vùng và tương đương với số tăng dân số tự nhiên của cả vùng. Tỉ lệ đô thị hóa của cả vùng trong 10 năm chỉ tăng nhẹ từ 22,8% lên 25,1%, trong khi cả nước tăng từ 29,6% lên 34,4%. Kết quả là khoảng cách về dân số đô thị của ĐBSCL so với cả nước đang ngày một dãn ra.

Những kết luận rút ra từ nghiên cứu này là hơn 3 thập kỷ qua, mô hình kinh tế truyền thống tập trung vào sản xuất nông nghiệp thay vì kinh tế nông nghiệp, số lượng thay vì chất lượng, manh mún hơn là tích tụ ruộng đất, phân mảnh thay vì liên kết thành chuỗi cung ứng... Mặc dù ĐBSCL đã thành công trong việc thoát đói, giảm nghèo, nhưng vùng đất này vẫn chưa đem lại được sự thịnh vượng cho phần lớn người dân của mình.

Từ những kết luận và tìm ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, báo cáo nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị mang tính tổng kết, đặc biệt gợi ý mô hình phát triển mới cho kinh tế ĐBSCL với nhiều luận điểm được thiết lập mang đến cho độc giả những góc nhìn mới để định hình lại câu chuyện phát triển kinh tế ĐBSCL.

Thanh Nguyên