Thế giới tái cấu trúc chuỗi cung ứng thời hậu COVID-19, cơ hội nào cho Việt Nam?
Thị trường và chính sách - Ngày đăng : 16:23, 17/01/2021
Trung Quốc là đầu mối thượng nguồn của nhiều chuỗi cung ứng trên thế giới và cũng là địa điểm đầu tiên mà dịch COVID-19 hoành hành. Làn sóng gián đoạn chuỗi cung ứng đầu tiên xảy ra ở Trung Quốc, các vấn đề tiếp theo xuất phát từ Nhật Bản và Hàn Quốc. Để đối phó với tình trạng này, nhiều quốc gia đang tái cấu trúc chuỗi cung ứng.
Đa dạng hóa, tạo mạng kỹ thuật số cho chuỗi cung ứng
Theo Trung tâm Thông tin và dự báo Kinh tế- xã hội quốc gia (NCIF- thuộc Bộ KH-ĐT), mỗi xu hướng tái cấu trúc chuỗi cung ứng thời kỳ hậu COVID-19 đều có những yếu tố tác động.
Cụ thể, hậu COVID-19 thúc đẩy đa dạng hóa và rút ngắn chuỗi cung ứng. Hình thành mối quan hệ lâu dài với một nhóm các nhà cung cấp đáng tin cậy, nhiều người mua đang khám phá việc sử dụng đa nguồn cung ứng để đảm bảo các đơn đặt hàng của họ được đáp ứng đầy đủ và liên tục.
Theo đó, việc phân chia các hoạt động tìm nguồn cung ứng giữa nhiều nhà cung cấp nhằm bảo vệ doanh nghiệp chống lại sự gián đoạn nguồn cung từ một nhà cung cấp duy nhất bằng cách tăng khối lượng có nguồn gốc từ một nhà cung cấp có thể không bị ảnh hưởng.
Xu hướng tiếp theo là tạo mạng kỹ thuật số cho các chuỗi cung ứng. Đây sẽ là chìa khóa để phản ứng với COVID-19 và xây dựng khả năng phục hồi cho tương lai.
Mạng lưới cung ứng kỹ thuật số đang hoạt động sẽ kết nối các công ty với mạng lưới cung cấp đầy đủ để cho phép hợp tác về khả năng hiển thị đầu cuối chuỗi, khả năng đáp ứng và tối ưu hóa chuỗi cung ứng.
Xu hướng này thiết lập các công ty có khả năng hiển thị mạng lưới chuỗi cung ứng, sử dụng trí tuệ nhân tạo để cho phép chuyển đổi chuỗi cung ứng.
Ngày nay, các nhà bán lẻ, nhà sản xuất, nhà cung cấp lớn nhất thế giới sử dụng công nghệ để tăng khả năng hiển thị, lập kế hoạch và quản lý vận chuyển toàn cầu, tối ưu hóa lượng hàng tồn kho cũng như cung cấp dịch vụ khách hàng khác biệt và hiệu quả của chuỗi cung ứng.
Công nghệ quyết định thành bại
Giải pháp tiếp theo được đề cập liên quan đến ông nghệ. Công nghệ đã nổi lên như một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của một công ty trong thời kỳ COVID-19. Tuy nhiên, các phân tích cho thấy rằng tất cả các công ty có thể không ở mức độ sẵn sàng công nghệ như nhau.
“Trong số các công nghệ được áp dụng, các công ty đang áp dụng nhiều công nghệ có thể cung cấp cho họ khả năng hiển thị trên toàn chuỗi giá trị cũng như những công nghệ giúp tăng hiệu quả hoạt động”, NCIF nêu.
Hơn nữa, việc sử dụng công nghệ có thể rất quan trọng đối với khả năng hiển thị trên toàn bộ chuỗi cung ứng cũng như để đạt được hiệu quả.
Khai thác sức mạnh của công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa, blockchain, giao diện lập trình ứng dụng (API) và vệ tinh công suất cao có thể giúp một công ty được cảnh báo trước những thay đổi của chuỗi cung ứng và một công ty có thể thực hiện các chiến lược và thực hành để giảm thiểu các tác động tiêu cực.
Khi các nhà bán lẻ ngừng hoạt động, lượng mua sắm trực tuyến tăng lên. Việc vận chuyển các mặt hàng từ các doanh nghiệp trực tiếp đến tay người tiêu dùng đã bị gián đoạn.
Thay vào đó, năng lực lao động và phát triển được chuyển sang hoạt động kinh doanh cốt lõi. Các giải pháp thông minh xung quanh việc đóng gói hoặc bảo mật giao hàng có thể trở nên quan trọng hơn.
Chuyển sản
Xu hướng nữa là chi phí lao động, logistics và sự sẵn sàng của cơ sở hạ tầng. Chuyển sản xuất về gần (Reshoring) là quá trình đưa hoạt động sản xuất và một phần hoặc toàn bộ chuỗi cung ứng từ nước ngoài về nước.
“Về gần (nearshoring) là một quá trình tương tự, nhưng đề cập đến một địa điểm gần quê hương. Trong một số trường hợp, một công ty sẽ phục hồi toàn bộ hoạt động và chuỗi cung ứng của mình, từ nguyên liệu thô đến thành phẩm”, NCIF nêu.
Theo trung tâm này, do chi phí lao động hoặc cơ sở hạ tầng và các thành phần để lưu trữ chuỗi cung ứng đầy đủ, việc thuê lại có nghĩa là đưa công ty lắp ráp cuối cùng và có thể là nhà cung ứng cấp một đến gần công ty mẹ, các nhà cung ứng cấp hai, ba và cao hơn vẫn có thể là nước ngoài.
Ví dụ về các công ty may mặc thay đổi các nhà cung cấp cấp 1 bên ngoài Trung Quốc, hầu hết ở các nước Đông Nam Á. Các quốc gia như Bangladesh không có nguồn nguyên liệu thô lớn và tiếp tục phụ thuộc vào Trung Quốc để nhập khẩu. Vì vậy, mặc dù cấp 1 đã chuyển đi, cấp 2 vẫn ở Trung Quốc.
COVID-19 gây ra những rủi ro do sự gián đoạn nguồn cung ở Trung Quốc đã gây ảnh hưởng lớn trên toàn cầu. Đối với các công ty chưa tính đến việc tái cấu trúc chuyển sản xuất về gần trước khi sự gián đoạn của COVID-19 xuất hiện, có thể còn quá sớm để quyết định về những thay đổi dài hạn có thể đòi hỏi đầu tư quy mô lớn.
Do đó, chuyển sản xuất về gần (reshoring và nearshoring) sẽ bắt đầu có động lực khoảng sáu tháng sau khi chuỗi cung ứng đi vào trạng thái "bình thường mới". Xu hướng này sẽ tiếp tục lâu dài, cho đến khi chi phí bắt đầu lớn hơn lợi ích.
Các công ty sẽ đa dạng hóa các nhà cung cấp và mở rộng chuỗi cung ứng của họ nếu các nhà cung ứng cung cấp hàng hóa với giá cả phù hợp. Các điều kiện hiện tại rất thuận lợi cho việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng về chi phí và khả năng phục hồi.
Ví dụ, đối với các công ty của Mỹ, chi phí hậu cần và nhân công ở Mexico thấp hơn so với Trung Quốc và các nhà cung cấp gần nhà sẽ giảm thời gian giao hàng và nguy cơ gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu phức tạp.
Cơ hội nào cho Việt Nam?
COVID-19 thay đổi cấu trúc của chuỗi cung ứng toàn cầu. Cơ hội nhận vốn nước ngoài trong bối cảnh COVID-19 được cho là lớn hơn bao giờ hết. Việt Nam thậm chí có thể đón cả chuỗi doanh nghiệp, không chỉ từ Hàn Quốc, Nhật Bản... mà còn từ các tập đoàn lớn đến từ Mỹ.
Sự phá vỡ chuỗi cung ứng toàn cầu trong vài tháng qua khiến nhiều quốc gia cảm thấy cấp bách phải đa dạng hóa danh mục sản xuất, thay vì chỉ tập trung vào Trung Quốc.
Theo đó, Việt Nam là điểm đến đầy hứa hẹn cho làn sóng di dời nhà máy khỏi Trung Quốc sau khi Việt Nam đã tạo nên sự khác biệt, chống chọi thành công với đại dịch COVID-19 và duy trì những thành quả này. Về kinh tế đối ngoại, kim ngạch xuất khẩu tương đối cao, FDI và FII khá cao.
Tuy nhiên, cú sốc gián đoạn chuỗi cung ứng do COVID-19 gây ra đã ảnh hưởng xấu đến nhiều ngành công nghiệp Việt Nam cả về đầu vào và đầu ra: ngành sản xuất, may mặc, da giày…
Chuỗi cung ứng có thể mang lại lợi ích cho ngành công nghiệp Việt Nam, nhưng đến nay số lượng công ty Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ có đủ năng lực tham gia chuỗi cung ứng còn quá ít.
Khoảng 300 doanh nghiệp Việt Nam có khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng sản xuất. Nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận chuỗi cung ứng hiện có của các công ty lớn chuyên sản xuất lắp ráp. Lĩnh vực này chủ yếu do các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và liên doanh.
Nhiều giải pháp của Chính phủ đã được triển khai từ đầu năm để đối phó với tác động tiêu cực từ COVID-19 đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, việc triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp bù đắp một phần thiệt hại từ Covid-19, khắc phục khó khăn chưa thực sự hiệu quả.
Theo NCIF, thách thức chính đối với Việt Nam sẽ là tìm ra động lực tăng trưởng mới để củng cố đà phục hồi dự kiến.
Ví dụ, trong một hệ thống thương mại toàn cầu mới, Việt Nam có thể củng cố dấu ấn hiện có của mình bằng cách phát triển các liên minh chiến lược với các quốc gia cũng có tỷ lệ nhiễm COVID-19 thấp và tăng cường các nỗ lực xúc tiến để thu hút các công ty có kế hoạch đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ.
Các nguồn tăng trưởng truyền thống của Việt Nam - nhu cầu nước ngoài và tiêu dùng tư nhân - khó có thể sớm trở lại mức trước khủng hoảng, trong bối cảnh những bất ổn liên tục xảy ra cả trong và ngoài nước.
NCIF cho rằng Việt Nam nên kêu gọi một thế hệ doanh nghiệp mới có năng lực và tư duy nhất định. Các doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm cơ hội trong các hiệp định thương mại tự do và chuyển dịch chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời nắm bắt sự cạnh tranh và tiêu chuẩn cao ở thị trường nước ngoài.