Nhiều trường hợp dùng sai cả tiếng mẹ đẻ
Giáo dục - Ngày đăng : 13:42, 11/02/2017
Một bài báo viết về cậu học sinh đi thi quốc tế về, kể rằng mẹ cậu ra sân bay đón, rất xúc động, "không giấu được niềm hạnh phúc".
Đành rằng, đó chỉ là cách nói, cách diễn đạt, thậm chí quen, nhưng rất vô lý. Hạnh phúc thì cứ thế mà phô ra, càng bộc lộ rõ càng tốt, làm quái gì phải giấu. Thể hiện rõ để mọi người được san sẻ, chung vui. Nếu có giấu thì người ta cố giấu nỗi buồn, bất hạnh cá nhân, đừng ảnh hưởng đến người khác, đến hoàn cảnh chung, chứ ai lại đi giấu hạnh phúc bao giờ.
Nhân tiện đây, xin đề cập đến những từ có liên quan đến trạng thái tình cảm: nỗi, niềm, mối. Tôi đọc trên trang điện tử Báo Mới một bài viết trong đó có dùng cụm từ "nỗi đe dọa". Dường như cả người viết lẫn người biên tập không hiểu được khi nào dùng "nỗi", khi nào dùng "mối". Trong tiếng Việt, gần với từ "nỗi" là từ "niềm", tạo thành cặp "nỗi niềm" để chỉ trạng thái tình cảm, tâm trạng (vui buồn, đau xót, sung sướng...), ví dụ niềm vui, nỗi buồn, niềm hạnh phúc, niềm tự hào, niềm hy vọng, nỗi khổ đau, nỗi nhớ, nỗi đắng cay. Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du có câu tả tâm trạng Kiều: "Nỗi mình thêm tức nỗi nhà/Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng". Cô Kiều đang trong tâm trạng rất buồn, cả bản thân lẫn gia đình đều gặp chuyện không hay, nên đều là "nỗi". Dường như có sự mặc định "nỗi" là để chỉ những điều không hay, còn "niềm" cho điều hay.
Còn "mối" là từ để chỉ một hiện tượng nào đó trong xã hội, quan hệ xã hội, ví dụ mối đe dọa, mối quan hệ, mối lo, mối thâm tình...
Như vậy, trường hợp trên, đem cái từ chỉ tâm trạng ghép vào với hiện tượng xã hội sẽ thấy khập khiễng, khó chấp nhận.
Lại một trường hợp khác không ổn về tiếng mẹ đẻ. Khi tường thuật buổi ra mắt Hội đồng biên soạn Bách khoa toàn thư VN, có báo thuật lời một vị phó thủ tướng, rằng "việc biên soạn Bách khoa toàn thư VN là một công việc rất linh thiêng, trách nhiệm lớn với dân tộc, với cộng đồng". Tôi cứ cho rằng báo đã chép sai, dùng từ sai chứ không phải người phát ngôn.
Rõ ràng có sự nhầm lẫn trong việc dùng hai từ "linh thiêng" và "thiêng liêng". Cứ tạm hiểu, "linh thiêng" là từ để chỉ điều gì đó rất thiêng, rất linh, huyền bí, khó hiểu, ngoài cuộc sống trần tục, con người chưa thể hiểu hết được. Ví dụ: ngôi đền linh thiêng, cây đa linh thiêng, bức tượng linh thiêng, con chó đá linh thiêng. Trước những thứ này, cách tốt nhất là khấn vái cho nó lành. Người xưa thậm chí còn quy định khi đi qua cửa đền thiêng phải xuống ngựa (hạ mã) để tỏ ý kính sợ thánh thần, dù là quan chức lớn mấy đi chăng nữa cũng không được trái lễ.
Còn "thiêng liêng" để nhắm chỉ sự vật, hành động, tình cảm, con người, thậm chí lời nói, được coi là cao quý, đáng trọng vọng, đáng tôn thờ, rất đặc biệt. Ví dụ: Biên soạn Bách khoa toàn thư VN là việc thiêng liêng; chiến đấu bảo vệ đất nước là hành động thiêng liêng; lời thề thiêng liêng; giây phút thiêng liêng (chẳng hạn khi được kết nạp đảng); tình yêu thiêng liêng; tình mẹ thiêng liêng... Tức là phải rất đặc biệt, chứ chả ai bảo ăn phở thiêng liêng, cấu véo nhau thiêng liêng bao giờ.
Có những từ ngữ tiếng mẹ đẻ, thuần Việt, nghĩa rất rõ ràng nhưng báo chí lại dùng sai, thật không hiểu nổi.
Nguyễn Thông