Nguồn cơn lịch sử của câu 'Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh'

Giáo dục - Ngày đăng : 06:32, 08/03/2017

Cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng rất nhiều tướng lĩnh nữ nhi là điều đáng suy ngẫm. Và ắt hẳn, cái câu: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của dân gian ta, nguồn cơn có liên quan nhiều đến cuộc nổi dậy này.

Trong buổi đầu nước ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, có nhiều cuộc nổi dậy chống ách ngoại bang. Trong đó, sử cũ ghi nhận vị trí quan trọng của giới nữ nhi “liễu yếu đào tơ”, mà mở đầu, là sự kiện làm cho “Giao Châu chấn động”: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng.


Tang chồng không áo rũ, phục sức diệt quân thù
Cuộc khởi nghĩa của hai chị em Bà Trưng, được biết đến với nguồn cơn từ nợ nước, thù nhà gánh nặng trên vai. Như Thiên Nam ngữ lục từng tỏ bày:
Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẹn vẹn thửa công lênh này.

Quốc thù là nguyên nhân lớn nhất cho cuộc hợp quân đánh giặc, còn cái chết của chồng dưới tay tên Thái thú Tô Định là nguyên cớ trực tiếp để người phụ nữ “mặt hoa da phấn” ấy phải tay gươm mà phất cờ nghĩa. Có điều, khi cuộc khởi nghĩa của do Trưng Trắc lãnh đạo nổ ra năm Canh Tý (40) ngay sau khi Thi Sách bị sát hại, lúc lâm trận, trang phục của bà Trưng Trắc rất khác với người thường. Điều này được Việt sử tiêu án ghi lại: “Khi bà Trắc ra quân, chưa hết tang chồng, Bà ăn mặc quần áo đẹp, các tướng hỏi Bà, Bà trả lời rằng: “Việc binh phải tòng quyền, nếu giữ lễ làm dung nhan xấu xí, thì tự làm giảm nhuệ khí, nên ta mặc đẹp để làm cho thế quân hùng tráng; và lại lũ kia thấy thế, tâm động, nhụt bớt chí khí tranh đấu, thì ta dễ có phần thắng” Mọi người tạ rằng không nghĩ kịp”. Về trang phục của bà Trưng, vẫn Thiên Nam ngữ lục miêu tả là:
Dung nhan diện mạo phương phi,
Mẽ vời lãng uyển khác gì Hằng Nga.
Miệng cười hơn hớn nở hoa,
Da tựa trứng gà, má tựa phấn yên.
Chiến bào Thục gấm vẻ in,
Lưng đeo đai ngọc, chân xuyên hoa hài.
Trên đầu búi tóc vén mai,
Hoa cài tả hữu, trâm cài trước sau.
Coi dường nguyệt dãi đông lâu,
Động lòng Vương Sán thấy âu khôn cầm.

Thế mới thấy, người phi thường thì suy nghĩ đâu có giống với kẻ phàm. Để tang chồng là nghĩa phu phụ xưa nay phải làm, nên tóc rũ, áo quần sổ gấu là chuyện thường. Ấy nhưng với bà Trưng Trắc, cái tang nước cao hơn hết thảy. Lại vì để có thể thắng được bọn giặc hung bạo, cần phải làm cho sĩ khí quân lính thêm mạnh, mà sự hung bạo của kẻ thù cũng phải làm cho nó tiết chế bớt đi, thế nên mới có kiểu cách ăn mặc như thế của bà để làm cho giặc “tâm động”. Cái nhìn cao xa của bà hẳn ở đó.


Nữ nhi quật khởi đất Nam. Đánh bầy Tô Định tham tàn hồi hương
Thật hiếm thấy cuộc nổi dậy nào trong lịch sử dân tộc ta, mà lực lượng lãnh đạo lại đa phần là đàn bà, con gái. Trong cuộc khởi nghĩa đầu tiên được sử ghi nhận trong thời Bắc thuộc này, cuộc nổi dậy của chị em Hai Bà, quả là hiếm có ở đời khi đội ngũ tướng lĩnh tay búp măng cầm đốc kiếm, gót sen mảnh đạp yên ngựa diệt thù nhiều vô kể. Thế nên chẳng ngoa khi Thiên Nam minh giám ca ngợi:
Dấy một cơn rồng vươn hùm thét,
Nổi gió oai thổi hết loài gian.
Lạ thay đôi sức hồng nhan,
Sáu mươi thành lẻ đặt yên bằng tờ.

Trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, hào kiệt khắp các vùng miền tụ về quanh Hà Bà để đánh đuổi quân đô hộ. Sử sách chính thống không ghi chép trong hàng tướng lĩnh ấy những ai là là các bậc nữ nhi. Nhưng, trong dân gian khắp vùng Bắc Bộ như Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Bình, Hải Phòng… khắp nơi nơi đời sau đều có đền thờ các nữ tướng của Hai Bà. Họ là Thiều Hoa, Lê Chân, Xuân Nương…
Ngoài ra, cũng nên lưu ý rằng không phải là không có những nam tướng tham gia. Chỉ có điều số lượng của họ không lấn át được giới nữ nhi. Đứng về phương diện lịch sử, có ý kiến cho rằng đây không đơn thuần chỉ là cuộc khởi nghĩa chống đô hộ phương Bắc, mà còn là cuộc nổi dậy lần cuối của chế độ thị tộc mẫu hệ đã suy tàn từ thời Văn Lang - u Lạc khi mà trong lĩnh vực kinh tế, săn bắn, hái lượm với vai trò lớn của phụ nữ đã dần bị thay thế bởi kinh tế nông nghiệp lúa nước với sự xuất hiện của đồ sắt, cũng là sự chiếm lĩnh rõ rệt của chế độ thị tộc phụ hệ ở đất ta thời bấy giờ. Nên Lương Đức Thiệp trong Xã hội Việt Nam mới có nhận xét rằng: “Như ngọn lửa, trước khi tắt hẳn còn bùng lên một lần chót, những lực lượng đang tàn của thị tộc mẫu hệ Việt Nam vùng dậy để kết tinh trong hai người đàn bà, hai lực lượng còn sót của chế độ mẫu hệ đã nghiêng lay đến tận nền tảng”. Phải chăng vì thế mà cuộc khởi nghĩa quy tụ rất nhiều tướng lĩnh nữ nhi, đó cũng là điều đáng suy ngẫm lắm. Nhưng ắt hẳn, cái câu: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của dân gian ta, nguồn cơn có liên quan nhiều đến cuộc nổi dậy này.
Dù sau này bị Mã Viện đem quân sang đàn áp, nhưng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng cùng đội ngũ tướng lĩnh năm Canh Tý (40) đã giành được thắng lợi vang dội, không những tỏ được lòng yêu nước của dân Việt, mà cái vai trò của những kẻ “nâng khăn, sửa gối” cho bọn nam nhi cũng được tôn cao lắm lắm, nên ngay đến các nhà chép sử cũng phải ngợi ca, như Lê Tung trong Việt giám thông khảo tổng luận thì khen Hai Bà “cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu”, còn Đại Việt sử ký toàn thư thì nhận xét: “Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục”… “Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất không vì thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư?”. Trong Việt sử yếu, Thái Hà Diên mậu Hoàng Cao Khải đã làm một bài Đường luật mà ngợi ca rằng:
Hận nước, thù nhà, lẽ chẳng tha,
Anh hùng muôn thuở khách quần thoa.
Khăng khăng một mối tình em chị,
Trìu trĩu hai vai nợ nước nhà.
Thề tuốt gươm vàng trừ nghịch tặc,
Quyết liều vóc ngọc chặn cuồng ba.
Noi gương oanh liệt ngàn thu trước,
Phụ nữ nay ai nối nghiệp Bà?

Sau khi khởi nghĩa thành công, Hai Bà Trưng đã xây dựng nên một chính quyền tự chủ trong thời gian 40 - 43. Dù nền độc lập tồn tại ngắn ngủi, nhưng đó là thời gian dân ta hưởng nền thái bình trước khi lại đương đầu với bọn xâm lược:
Dù thân về miền cực lạc, nhưng uy danh, công lao Hai Bà Trưng thì hậu thế mãi mãi khắc ghi đời đời. Cuộc nổi dậy của Hai Bà cũng là động lực để hậu thế sau này nối tiếp mà vùng lên hòng tranh quyền độc lập, như Sử Nam bốn chữ ghi:
Vua Bà Trưng Trắc,
Muôn thuở một người.
Báo thù độc lập,
Hùng khí rực trời.

Trần Đình Ba