Can thiệp nội mạch cứu sống bệnh nhân vỡ phình động mạch vị tá tràng nguy kịch
Thông tin Y học - Ngày đăng : 21:50, 13/10/2021
Bệnh nhân N.N.B. (54 tuổi, địa chỉ ở TP.HCM) đang sinh sống và làm việc tại tỉnh Sóc Trăng, được bệnh viện địa phương chuyển đến BVĐKTƯ CT vào lúc 22 giờ 29 phút ngày 9.10 với tình trạng bụng chướng, đề kháng, ấn đau thượng vị, đau quanh rốn, hông phải, ngày càng tăng kèm nôn ói nhiều. Khám có dấu hiệu thiếu máu cấp, bụng đau và chướng nhiều. Bệnh nhân được xử trí cấp cứu bù máu, truyền dịch…
Quá trình siêu âm bụng kiểm tra cho thấy bệnh nhân có nhiều máu đông trong ổ bụng, máu tụ sau phúc mạc. Bệnh nhân có chỉ định chụp và can thiệp nội mạch với chẩn đoán: xuất huyết nội do vỡ phình động mạch vị tá tràng do BS. CK1 Phạm Minh Phước - khoa Chẩn đoán hình ảnh thực hiện.
Kết quả ghi nhận nhiều ổ thoát mạch từ nhánh của động mạch vị-tá tràng cấp máu vùng tá tràng đoạn DIII, ê kíp tiến hành tắc mạch bằng hỗn hợp keo, chụp kiểm tra thấy tắc hoàn toàn nhánh thoát mạch. Thời gian can thiệp 40 phút. Sau can thiệp, tình trạng huyết động bệnh nhân ổn định.
Sau 3 ngày can thiệp, bệnh nhân đã tỉnh, sinh tồn ổn, niêm hồng, bụng mềm, không sốt, tình trạng chung ổn, đang được theo dõi và điều trị tiếp tại khoa Ngoại lồng ngực - Mạch máu.
BS.CK2 Trầm Công Chất - Trưởng khoa Ngoại lồng ngực - Mạch máu cho biết: "Phình mạch máu tạng là một dạng bệnh lý khá hiếm gặp (0.01-0.2% dân số) trong đó túi phình thường nằm ở các động mạch thân tạng, động mạch gan, động mạch lách. Phình động mạch vị tá tràng là một trong những dạng hiếm nhất, chỉ chiếm khoảng 1.5% trong các dạng phình mạch máu tạng.
Cơ chế sinh ra các túi phình chưa thực sự được hiểu rõ, nhưng đa số các trường hợp khởi phát sau viêm tụy cấp, chấn thương, sau phẫu thuật, tăng huyết áp. Nhìn chung, túi phình thường không có triệu chứng và được phát hiện một cách tình cờ trên các khảo sát hình ảnh học hoặc khi có biến chứng. Tuy nhiên, các biến chứng của nó có thể rất đa dạng và nghiêm trọng".
Xuất huyết tiêu hóa do vỡ phình mạch là bệnh cảnh hay gặp nhất (chiếm 52% trường hợp), đau bụng là triệu chứng phổ biến thứ hai chiếm 46% các trường hợp. Tỷ lệ tử vong khi vỡ khoảng 40% phụ thuộc vào mức độ nặng, tốc độ mất máu và đặc điểm giải phẫu của vị trí vỡ. Các triệu chứng khác có thể gặp là đau bụng, tắc nghẽn dạ dày, nôn ói, có khối u ở bụng… Chỉ 7,5% các bệnh nhân là không có triệu chứng. Tùy thuộc tương quan giải phẫu, kích thước và sự ăn mòn mà túi phình có thể được biểu hiện như tràn máu ổ bụng, xuất huyết tiêu hóa hoặc hiếm gặp hơn là chảy máu đường mật nếu túi phình vỡ vào ống mật chủ và ống tuy chính.
Trước đây, phình động mạch vị tá chỉ được chẩn đoán khi đã có biến chứng vỡ. Ngày nay, với sự phát triển của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh, việc chẩn đoán phình động mạch vị tá ở những người không có triệu chứng ngày càng phổ biến hơn. Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán phình động mạch vị tá là chụp mạch máu với độ nhạy lên đến 100%, sau đó là chụp cắt lớp vi tính (độ nhạy 67%) và siêu âm ổ bụng (độ nhạy 50%).
Do tỷ lệ tử vong lên đến 40% khi vỡ nên việc chẩn đoán và điều trị sớm phình động mạch vị tá càng sớm càng tốt trước khi có biến chứng này, đóng vai trò rất quan trọng. Các phương pháp điều trị hiện nay là phẫu thuật và can thiệp nội mạch. Việc can thiệp nội mạch đang ngày càng phổ biến hơn do những ưu điểm như xâm lấn tối thiểu, tỷ lệ thành công cao (lên đến 88.2%) và thời gian can thiệp nhanh hơn.
Với can thiệp nội mạch cầm máu, bệnh nhân sẽ không phải trải qua những cuộc đại phẫu nặng nề kéo dài hàng giờ, tiềm ẩn biến chứng trong và sau phẫu thuật nguy hiểm như sốc mất máu, nhiễm trùng vết mổ... Can thiệp thành công cũng giúp giảm lượng máu cần truyền, giảm tỷ lệ tử vong và giảm thời gian nằm viện của bệnh nhân, thời gian thủ thuật ngắn, cầm máu được tức thì, hạn chế tối đa xâm lấn là những ưu điểm vượt trội của can thiệp nội mạch.
Hiện nay, Bệnh viện ĐKTƯ CT có 2 hệ thống DSA và nhiều ê kíp có thể tiến hành can thiệp nội mạch cấp cứu với nhiều chuyên khoa khác nhau: chảy máu mũi, trong cấp cứu đột vị, các dị dạng mạch máu não vỡ, lấy huyết khối do tắc mạch máu lớn, nong và đặt stent trong bệnh lý mạch vành cấp cứu, tạo nhịp tim cấp cứu, chấn thương gan, lách, thận, nút mạch trong ho ra máu, xuất huyết tiêu hóa do dị dạng mạch máu… và đã có nhiều bệnh nhân nặng, nguy kịch được cứu sống.