Omicron phiên bản 'tàng hình' lây truyền mạnh hơn phiên bản ban đầu ở người đã tiêm vắc xin

Nhịp đập khoa học - Ngày đăng : 11:51, 01/02/2022

Đó là kết quả nghiên cứu gần đây ở Đan Mạch, nơi Omicron "tàng hình" đã thay thế phiên bản ban đầu trở thành biến thể chiếm ưu thế.

BA.2 lây truyền mạnh hơn BA.1 ở người tiêm 2, 3 mũi vắc xin

Một nghiên cứu của Đan Mạch phát hiện ra BA.2 (còn gọi là biến thể Omicron “tàng hình”) nhanh chóng thống trị nước này, có khả năng lây truyền cao hơn so với BA.1 (Omicron ban đầu) và lây nhiễm mạnh hơn những người đã tiêm vắc xin.

Nghiên cứu phân tích các ca mắc COVID-19 trong hơn 8.500 hộ gia đình Đan Mạch từ tháng 12.2021 đến tháng 1.2022, cho thấy những người nhiễm BA.2 có nguy cơ lây truyền vi rút cho người khác cao hơn khoảng 33% so với những ai nhiễm BA.1.

Trên toàn thế giới, BA.1 chiếm hơn 98% các ca nhiễm Omicron nhưng BA.2 đã nhanh chóng trở thành chủng vi rút SARS-CoV-2 thống trị ở Đan Mạch, vượt qua BA.1 vào tuần thứ hai của tháng 1.2022.

Các nhà nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi kết luận rằng Omicron BA.2 về cơ bản có khả năng lây truyền cao hơn BA.1 và nó cũng sở hữu các đặc tính tránh miễn dịch, làm giảm thêm tác dụng bảo vệ từ việc tiêm vắc xin”.

Nghiên cứu vẫn chưa được đánh giá bởi các nhà nghiên cứu tại Statens Serum Institut (SSI), Đại học Copenhagen, Thống kê Đan Mạch và Đại học Kỹ thuật Đan Mạch.

"Nếu tiếp xúc với ca nhiễm BA.2 trong gia đình, bạn có 39% xác suất lây vi rút trong vòng 7 ngày. Thay vào đó, nếu tiếp xúc với ca nhiễm BA.1, xác suất là 29%", Frederik Plesner, tác giả chính của nghiên cứu nói với Reuters.

Điều đó cho thấy BA.2 có khả năng lây nhiễm cao hơn BA.1 khoảng 33%, ông Frederik Plesner nói thêm.

omicron-tang-hinh-lay-truyen-manh-hon-ban-ban-dau-o-nguoi-tiem-2-3-mui-vac-xin.jpg
BA.2 lây truyền mạnh hơn BA.1, bai gồm cả ở người tiêm 2 hay 3 mũi vắc xin - Ảnh: Internet

Các trường hợp nhiễm BA.2 cũng được ghi nhận ở Mỹ, Anh, Thụy Điển và Na Uy, nhưng với mức độ thấp hơn nhiều tại Đan Mạch, nơi nó chiếm khoảng 82% số ca mắc COVID-19 mới.

Nghiên cứu cũng chỉ ra BA.2 nhỉnh hơn BA.1 trong lây nhiễm ở những người đã được tiêm 2, 3 mũi vắc xin, thể hiện "đặc tính tránh miễn dịch". Tuy nhiên, nghiên cứu nhấn mạnh rằng vắc xin vẫn đóng vai trò quan trọng vì những người đã tiêm 2, 3 mũi vắc xin ít lây nhiễm BA.2 so với những ai chưa tiêm phòng COVID-19.

Phân tích sơ bộ của SSI chỉ ra rằng không có sự khác biệt về nguy cơ nhập viện do nhiễm BA.2 so với BA.1.

Nghiên cứu cũng xác nhận phân tích sơ bộ từ Anh, cho thấy BA.2 dường như có lợi thế tăng trưởng đáng kể so với BA.1.

Ngoài BA.1 và BA.2, WHO liệt kê hai biến phụ khác của Omicron là BA.1.1.529 và BA.3. Tất cả đều có liên quan chặt chẽ về mặt di truyền, nhưng mỗi loại đều sở hữu các đột biến có thể thay đổi cách chúng hoạt động.

Nhiều người mắc COVID-19 đối mặt rủi ro sau khi xuất viện

Các nhà nghiên cứu ở Anh phát hiện ra rằng nhiều người từng mắc COVID-19 phải đối mặt với nguy cơ cao hơn về các vấn đề sức khỏe trong những tháng sau khi xuất viện.

Nghiên cứu so sánh 24.673 bệnh nhân sống sót khi mắc COVID-19 ít nhất một tuần sau khi xuất viện và 123.362 người có độ tuổi tương tự trong dân số nói chung. Họ nhận thấy những người sống sót sau mắc COVID-19 có nguy cơ nhập viện hoặc tử vong cao gấp đôi trong 10 tháng tới.

So với 16.058 người nhập viện vì cúm, bệnh nhân COVID-19 có nguy cơ được sơ cứu hoặc tử vong do nhiễm vi rút lần đầu hoặc nhiễm trùng đường hô hấp dưới cao hơn 37%; nguy cơ nhập viện hoặc tử vong liên quan đến nhận thức cao hơn 37%. Các nhà nghiên cứu báo cáo thông tin này trên PLOS Medicine.

Theo đó, những bệnh nhân mắc chứng sa sút trí tuệ hậu COVID-19 phải nhập viện có nguy cơ tử vong đặc biệt cao trong những tháng tiếp theo.

Các nhà nghiên cứu viết: "Một số lượng lớn người phải nhập viện vì COVID-19. Nguy cơ tái nhập viện và tử vong có thể ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe cộng đồng cùng các nguồn lực. Các rủi ro có thể được giảm nhẹ hoặc giảm thiểu bằng cách tăng cường giám sát bệnh nhân trong những tháng sau khi xuất viện, đồng thời bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng nhận thức rõ hơn về các vấn đề tiềm ẩn".

Tim trở lại bình thường 3 tháng sau khi trẻ em bị MIS-C

Một nghiên cứu mới cho thấy, ở những đứa trẻ phát triển hội chứng viêm đa hệ thống (MIS-C) liên quan đến COVID-19 hiếm gặp nhưng đe dọa tính mạng, chức năng tim bắt đầu phục hồi trong vòng 1 tuần sau khi chẩn đoán và trở lại bình thường trong vòng 3 tháng.

Khởi phát khoảng 4-6 tuần sau khi tiếp xúc với COVID-19, MIS-C có thể gây viêm ở tim, phổi, thận và các cơ quan tiêu hóa. Khoảng 4/5 trường hợp liên quan đến tâm thất trái của trẻ, nơi bơm máu đến phần còn lại của cơ thể.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu 60 trẻ em nhập viện vì MIS-C (70% trong số đó có bằng chứng về tổn thương cơ tim) và 60 trẻ khỏe mạnh với tim bình thường.

Siêu âm tim và chụp cộng hưởng từ cho thấy tất cả bất thường ở trẻ nhập viện "hồi phục nhanh chóng trong tuần đầu tiên, sau đó là tiếp tục cải thiện và hoàn toàn bình thường sau 3 tháng", các nhà nghiên cứu đã báo cáo trên Tạp chí của Hiệp hội Tim mạch Mỹ.

Họ nói rằng ở một nửa số trẻ em, những thay đổi chức năng tim liên quan đến MIS-C biến mất trong vòng 6 ngày.

Nghiên cứu không đánh giá về các hậu quả khác. Tuy nhiên, Tiến sĩ Anirban Banerjee của Bệnh viện Nhi Philadelphia (Mỹ) cho biết: “Sự phục hồi của những đứa trẻ này rất tuyệt vời".

Ông nói thêm rằng những phát hiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý trẻ em bị MIS-C.

"Phát hiện của chúng tôi cũng có thể cung cấp hướng dẫn để trẻ em dần dần quay trở lại chơi thể thao khi tim phục hồi từ 3 đến 4 tháng sau đó", Tiến sĩ Anirban Banerjee cho hay.

Vimentin giúp vi rút SARS-CoV-2 mở khóa cổng xâm nhập tế bào

Khi đột biến SARS-CoV-2 đột nhập vào tế bào thông qua một protein trên bề mặt tế bào được gọi là ACE2, một protein bề mặt tế bào thứ hai có tên vimentin sẽ tạo điều kiện cho quá trình này, có thể bằng cách đóng vai trò là cầu nối giữa vi rút và ACE2.

Sử dụng các kỹ thuật hóa học phân tích phức tạp, các nhà nghiên cứu quan sát thấy rằng vimentin tự gắn vào protein gai trên bề mặt vi rút SARS-CoV-2. Dựa trên những phát hiện mới, họ tin rằng nó cũng có thể tự gắn vào protein ACE2. Ở các thí nghiệm trong ống nghiệm, họ thấy rằng khi có cả vimentin và ACE2, sự xâm nhập của vi rút vào các tế bào lót trong mạch máu sẽ tăng lên. Họ cũng phát hiện rằng sự suy giảm vimentin làm giảm đáng kể sự lây nhiễm SARS-CoV-2 vào tế bào người.

Đồng tác giả nghiên cứu, Nader Rahimi của Trường Đại học Y khoa Boston (Mỹ), nói nhóm của ông phát hiện ra rằng một kháng thể đơn dòng do hãng Abcam phát triển đã ngăn chặn vimentin liên kết với SARS-CoV-2, từ đó ngăn không cho vi rút xâm nhập vào tế bào.

Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng vimentin cũng được tìm thấy trên các tế bào lót trong tim, túi khí của phổi và mũi.

Các nhà nghiên cứu tuyên bố: “Việc xác định phạm vi đầy đủ về sự tham gia của vimentin trong sự xâm nhập và lây nhiễm của vi rút sẽ đòi hỏi những nghiên cứu sâu hơn”. Họ hy vọng phát hiện của mình sẽ cho ra đời các loại thuốc kháng vi rút mới ngăn cả ACE2 và vimentin tương tác với SARS-CoV-2.

Sơn Vân