PGS-TS Phạm Thế Anh: Áp dụng trần tín dụng khiến ngành ngân hàng trở nên kém cạnh tranh

Tài chính và đầu tư - Ngày đăng : 10:27, 25/11/2022

PGS-TS Phạm Thế Anh cho rằng việc áp dụng trần tín dụng sẽ khiến cho ngành ngân hàng trở nên kém cạnh tranh. Các ngân hàng tốt hay xấu đều được chia hạn mức, không ngân hàng nào thị phần giảm sút.

Tăng trưởng chậm lại

Tại tọa đàm “Thách thức chính sách kinh tế vĩ mô hậu COVID”, PGS-TS Phạm Thế Anh (Đại học Kinh tế Quốc dân), Kinh tế trưởng, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) cho rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 30 năm tương đối ấn tượng với mức tăng trung bình 6,5%, tốc độ thuộc loại cao và ổn định so với thế giới.

Quy mô kinh tế 2021 khoảng 363 tỉ USD, Việt Nam lọt top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2021 đạt gần 3.700 USD, gấp 2,4 lần so với năm 2011. Tuy nhiên, thước đo GDP của Việt Nam còn gây tranh cãi.

Từ năm 2008 đến nay, tăng trưởng kinh tế chậm lại do khủng hoảng nội tại của nền kinh tế cũng như tác động bên ngoài. Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng (dựa thuần túy vào vốn) đang đạt đến giới hạn và tác động của dịch COVID-19. Để tiếp tục tăng trưởng cần có những nhân tố mới.

Thu nhập bình quân đầu người theo sức mua tương đương năm 2021 của Việt Nam bằng 17% của Mỹ, bằng 24 - 26% của Nhật Bản, Hàn Quốc, bằng 40% của Malaysia và bằng 61% Thái Lan và Trung Quốc. Việt Nam chỉ đuổi kịp những nước thu nhập cao hơn nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài, nếu không, khả năng đuổi kịp các nước càng xa hơn. Đó là nguy cơ bị tụt hậu của kinh tế Việt Nam.

the-anh-2.jpg
Tọa đàm “Thách thức chính sách kinh tế vĩ mô hậu COVID”

PGS-TS Phạm Thế Anh cho rằng nền kinh tế những năm gần đây có những điểm sáng như tỷ lệ lạm phát được kiềm chế ở mức một con số, cán cân thương mại liên tục thặng dư từ năm 2016, đầu tư nước ngoài ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng 10 lần trong giai đoạn 2010 - 2021…

Tuy nhiên, nền kinh tế còn những thách thức nhất định như gánh nặng nợ công tăng nhanh, có nguy cơ gây bất ổn cho nền kinh tế trong thập niên tới nếu Việt Nam tiến hành các dự án có vốn đầu tư lớn.

Giai đoạn 2010 - 2021, nợ công tăng 3,2 lần, tốc độ tăng 11,3%/năm, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ nợ công/GDP có xu hướng giảm; tỷ lệ nợ công/thu NSNN lại tăng những năm gần đây. Quy mô nợ công càng lớn thì nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh. Việt Nam đang dành khoảng 1/5 thu ngân sách cho nghĩa vụ trả nợ.

Nên bỏ trần tăng trưởng tín dụng

Nói về chính sách tiền tệ, theo PGS.TS Phạm Thế Anh, chính sách tiền tệ của Việt Nam còn nhiều bất cập, trong đó nặng về can thiệp hành chính như “xin cho” (trần lãi suất, trần tăng trưởng tín dụng…); tín dụng phụ thuộc vào ngân hàng, chính sách không mang tính nghịch chu kỳ…

Về chính sách trần tín dụng, ông Phạm Thế Anh cho rằng chính sách này được cho là kiểm soát lạm phát chính xác hơn so với cung tiền; dễ sử dụng; làm giảm chi phí vốn đối với khu vực công và giống như một loại thuế đánh vào hệ thống tài chính…

Tuy nhiên, theo ông Phạm Thế Anh, việc áp dụng trần tăng trưởng tín dụng còn có nguyên nhân từ ngân hàng trung ương thiếu kỹ thuật và khả năng điều hành; hoạt động thị trường mở kém hiệu quả; hệ thống tài chính thiếu vắng các chuẩn mực an toàn…

“Việc áp dụng trần tín dụng sẽ khiến cho ngành ngân hàng trở nên kém cạnh tranh. Các ngân hàng tốt hay xấu đều được chia hạn mức, không ngân hàng nào thị phần giảm sút, hay nói cách khác thị phần của ngân hàng không gắn với khả năng cạnh tranh khi vướng trần cho vay", PGS-TS Phạm Thế Anh nhấn mạnh và cho rằng trần tín dụng còn khiến hệ thống dư thừa dự trữ, thường là do hậu quả của việc tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách.

Ngoài ra, theo chuyên gia Phạm Thế Anh, việc áp dụng trần tín dụng còn gây hậu quả là dòng vốn có thể "trá hình" sang các dạng khác. Từ đó, kéo theo các can thiệp hành chính khác, hạn chế sự phát triển hệ thống tài chính. Đồng thời, đối diện với nguy cơ chuyển dịch tiết kiệm/tài sản trong nước ra nước ngoài.

Dẫn chứng từ chỉ tiêu trần tín dụng, ông Phạm Thế Anh cho hay, mục tiêu cao nhất của kiểm soát lạm phát là kiểm soát được cung tiền, đặc biệt là tiền cơ sở (tiền in ấn mới phát hành bởi Ngân hàng Nhà nước), không phải kiểm soát tín dụng. Tín dụng là hoạt động phải tuân theo quy tắc thị trường, miễn là các ngân hàng tuân thủ các chỉ tiêu an toàn hệ thống, ngân hàng sẽ được phép tự do kinh doanh nguồn vốn họ huy động được.

the-anh.jpg
PGS-TS Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS)

Do đó, Việt Nam nên sớm chấm dứt việc sử dụng trần tín dụng cũng như các can thiệp hành chính trực tiếp khác trên thị trường vốn/tiền tệ. Thay vào đó, kiểm soát tiền cơ sở, cung tiền và điều tiết gián tiếp qua lãi suất mục tiêu. Đồng thời, giám sát chặt chẽ các ngân hàng thương mại gồm: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR); Tỷ lệ cho vay trên huy động (LTD); Tỷ lệ nợ xấu; Tỷ lệ huy động ngắn hạn cho vay trung và dài hạn.

Chính sách bất ngờ sẽ tạo ra cú sốc tiêu cực

Về chính sách tài khóa, ông Phạm Thế Anh cho rằng cần đặt mục tiêu cao nhất là đảm bảo tính bền vững của nợ công gồm hai chỉ tiêu là ổn định quy mô nợ công theo thu NSNN và kiểm soát nghĩa vụ nợ trên thu ngân sách.

Ngoài ra cần cải thiện cơ cấu chi ngân sách theo hướng giảm tiêu dùng tăng chi đầu tư phát triển. Đồng thời thu NSNN cần giảm dựa vào các nguồn thu kém bền vững, tránh phát sinh những loại phí – lệ phí mới.

Thêm vào đó, chính sách tài khóa cần thực hiện theo hướng nghịch chu kỳ, cụ thể là những năm kinh tế tăng trưởng cao thì phải có thặng dư ngân sách để dự phòng cho thời điểm kinh tế xấu hơn. Điều này khác với chính sách thuận chu kỳ, là cứ dùng nguồn lực tài khóa để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng càng cao thì chi tiêu càng nhiều, khi khó khăn xảy ra thì thiếu nguồn lực hỗ trợ người dân và doanh nghiệp.

Về chính sách tiền tệ, phải tuân thủ theo quy tắc minh bạch, có giải trình rõ ràng; kiểm soát cung tiền phù hợp. Ông đánh giá đây là nhược điểm lớn của chính sách tiền tệ ở Việt Nam.

“Một chính sách khó dự đoán, bất ngờ, không minh bạch sẽ gây bất ngờ cho nền kinh tế và tạo ra cú sốc tiêu cực. Chính sách tiền cần được thực hiện theo những quy tắc nhất định, tăng hay giảm lãi suất đều phải có lý do. Ví dụ điều chỉnh lãi suất theo mục tiêu ổn định lạm phát hay ổn định tỷ giá hay giảm tỷ lệ thất nghiệp thì chính sách tiền tệ thực hiện theo những mục tiêu này. Khi đó, thị trường, doanh nghiệp và người dân sẽ dự báo được, nếu không, họ không thể lập được kế hoạch kinh doanh dài hạn”, ông Phạm Thế Anh nêu.

Hoài Lam