Các nhà hoạch định chính sách hàng đầu từng dự báo sai về lạm phát 2022

Tài chính và đầu tư - Ngày đăng : 06:00, 12/01/2023

Cuối năm 2021 và đầu năm 2022, hầu hết các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là ở các định chế lớn đều nhận định là lạm phát chỉ mang tính thời điểm. Tuy nhiên, thực tế ngược lại khi lạm phát lên cao nhất 40 năm gần đây.

Chia sẻ về bức tranh lãi suất trong năm 2023 tại diễn đàn "Kịch bản kinh tế Việt Nam năm 2023", TS Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng BIDV cho biết theo dự báo, Mỹ nhiều khả năng sẽ tăng lãi suất 2 lần nữa, sau đó sẽ dừng lại và có thể cân nhắc bắt đầu giảm lãi suất từ quý 1/2024, nếu tình hình kinh tế Mỹ không được tốt. Còn các quốc gia ở châu Âu, châu Á sẽ có độ trễ hơn khoảng một quý.

Ngoài ra, lạm phát được dự báo nhích tăng nhưng cơ bản được kiểm soát; áp lực tăng lãi suất, áp lực tỷ giá và rủi ro nợ đang giảm dần.

Tuy nhiên, theo ông Lực, về cơ bản, nền tảng vĩ mô của Việt Nam mạnh hơn trước rất nhiều và tiếp tục được duy trì tương đối ổn định. Kinh nghiệm phòng chống dịch, quản trị rủi ro, các kinh nghiệm xử lý những khủng hoảng của Việt Nam đã được tích lũy tương đối tốt thời gian vừa qua, rủi ro tài khóa ở mức trung bình, tạo dư địa cho năm 2023.

cs.jpg
Các chuyên gia thảo luận tại diễn đàn Kịch bản kinh tế Việt Nam năm 2023

Theo ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, năm 2022, dư địa điều hành chính sách tiền tệ rất khó khăn và kéo dài cho đến 2023. Vào thời điểm cuối năm 2021 và đầu năm 2022, hầu hết các nhà hoạch định chính sách trên thế giới đều nhận định là lạm phát toàn cầu chỉ mang tính thời điểm, tạm thời. Tuy nhiên, thế giới đã phải trả giá khi lạm phát tăng lên cao nhất 40 năm gần đây.  

“Với nhận định sai lầm đó, các ngân hàng trung ương đều nhanh chóng chuyển đổi chính sách tiền tệ từ nới lỏng chuyển sang thắt chặt để kiểm soát lạm phát. Thậm chí, Fed đã tăng 4 lần lãi suất với mức tăng 0,75 điểm phần trăm mỗi lần. Trong khi đó, ở quá khứ hầu như Fed chỉ tăng 0,25 điểm phần trăm mỗi lần. Điều này thể hiện quá trình kiềm chế lạm phát rất nhanh, gấp”, ông Quang nói.

Vì vậy, theo ông Quang, mặt bằng lãi suất toàn cầu bị đẩy lên rất cao làm cho đồng USD tăng giá lên mức cao nhất trong vòng 20 năm trở lại đây. Riêng trong năm 2021, chỉ số DXY đo sức mạnh đồng USD tăng tới 21%. Điều này tạo lên áp lực khủng khiếp lên chính sách tiền tệ, không chỉ của Việt Nam mà tất cả lên các nước mới nổi.

“Trong bối cảnh đó, đồng USD trở thành hầm trú ẩn cho tất cả các nhà đầu tư. Dự trữ ngoại hối của các nước trên thế giới sụt giảm gần 10.000 tỉ USD, chiếm khoảng khoảng gần 9% tổng dự trữ ngoại hối thế giới, vì dòng đảo chiều chảy về Mỹ”, ông Quang chia sẻ.

Với bối cảnh đó, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho rằng chính sách tiền tệ của Việt Nam rất khó khăn, đặc biệt khi độ mở của nền kinh tế đang rất lớn thì khả năng chống chọi với cú sốc khủng khiếp đó là cực kỳ căng thẳng.

“Bài toán khó nhất đối với Ngân hàng Nhà nước là tìm điểm cân bằng hài hòa giữa điều hành lãi suất và tỷ giá. Nếu hy sinh tỷ giá thì giữ được lãi suất và giữ được dự trữ ngoại hối. Ngược lại, nền kinh tế của Việt Nam có độ mở rất lớn tới với kim ngạch xuất nhập khẩu hơn 200% so với GDP, dẫn tới việc nhập khẩu lạm phát. Điều này khiến lạm phát trong nước không kiểm soát được. Khi đó, các mục tiêu vĩ mô cũng không thể kiểm soát được”, ông Quang nói.

quang.jpg
Ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước

Trong bối cảnh đó, ông Quang cho rằng năm 2022 Việt Nam nhúng chính sách tiền tệ vào trong bối cảnh kinh tế vĩ mô thì Ngân hàng Nhà nước phải đối mặt với nhiều khó khăn lột loạt bài toán khó đặt ra.

Cụ thể, làm thế nào để điều hành tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế mà vẫn phải đảm bảo an toàn hệ thống trong khi một số chỉ tiêu tiền tệ như tỷ lệ tín dụng/huy động vốn và dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã và đang ở ngưỡng cảnh báo.

Theo ông Quang, hiện tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP đã lên tới 124%, mức cao nhất đối với các nước có thu nhập trung bình thấp. Nếu nhìn tỷ lệ trên thì chưa thể đánh giá hết, nhưng nếu nhìn con số tuyệt đối về dư nợ lên tới 12 triệu tỉ đồng thì thật sự là lớn. Đồng thời, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam là phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, cho nên áp lực đối với tín dụng trong bối cảnh biến động của năm 2022 lại càng lớn.

Một khó khăn nữa là làm thế nào ổn định được thị trường ngoại hối khi nền kinh tế của ta có độ mở cửa lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đồng USD tăng giá mạnh, Việt Nam đang trong giai đoạn giám sát nâng cao về thao túng tiền tệ của phía Mỹ. Làm thế nào ổn định được an toàn hệ thống khi thanh khoản hệ thống và niềm tin của thị trường chịu tác động mạnh bởi sự cố SCB chưa từng có tiền lệ.

Bước sang năm 2023, ông Quang cho biết mục tiêu xuyên suốt là điều hành chính sách tiền tệ là giữ được sự ổn định của dòng tiền, kiểm soát lạm phát. Từ mục tiêu đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ đạt được mục tiêu của nội bộ ngành là duy trì sự hoạt động lành mạnh, ổn định của ngành ngân hàng.

"Rất may cuộc khủng hoảng lần này rất khác hồi năm 2008. Ở thời điểm 2008, ngành ngân hàng chất lượng, quản trị thực sự có vấn đề và nợ xấu dâng cao. Chúng ta phải trải qua cuộc vật lộn tái cơ cấu hơn 10 năm vẫn chưa xong. Nhưng đến nay, mừng nhất ngành ngân hàng có sức khoẻ tốt hơn, bảng cân đối tốt", ông Quang chia sẻ.

Theo đó, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ cho biết, năm 2023, Ngân hàng Nhà nước sẽ hành động theo phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Trong đó bất biến là kiểm soát lạm phát, còn cách thức điều hành thì rất linh hoạt.

Hoài Lam