Những thí nghiệm kỳ lạ trong lịch sử về kiếp luân hồi
Kiến thức - Học thuật - Ngày đăng : 21:33, 09/03/2015
Từ rất lâu nhân loại đã trăn trở với câu hỏi này. Đối với một số người, tôn giáo đã cung cấp cho họ lời giải đáp. Trong khi đối với những người khác, họ vẫn tiếp tục tìm kiếm và thường hay sử dụng những phương pháp kỳ lạ để kiểm định xem liệu cái chết có phải là kết thúc hay không.
Dưới đây chúng ta cùng điểm qua một số thí nghiệm hấp dẫn và kỳ quái nhất mà con người từng tiến hành để công nhận hoặc phủ nhận ẩn đố này:
Thí nghiệm 21 grams
MacDougall muốn đo đạc xem liệu có bất kỳ thay đổi đáng kể nào trong khối lượng của bệnh nhân vào thời khắc cuối đời của họ hay không. Ộng đã đặt sáu bệnh nhân mắc chứng lao giai đoạn cuối trên một chiếc cân công nghiệp có khả năng đo đạc chính xác đến 2/10 của một ounce (1 ounce = 28 gram).
Theo lời kể của TS MacDougall, cả sáu bệnh nhân đã mất ¾ ounce hay khoảng 21 gram sau khi trút hơi thở cuối cùng. Tương tự, ông tiến hành thí nghiệm trên 15 con chó nhưng không phát hiện thấy thay đổi về khối lượng. Từ đó ông kết luận rằng sự chênh lệch khối lượng ở đây chính là khối lượng của linh hồn con người.
Mặc dù nghe có vẻ logic, nhưng thí nghiệm này lại không có căn cứ khoa học và trên thực tế TS MacDougall đã tuyển chọn khi công bố các kết quả thí nghiệm của mình. Thực ra, chỉ một trong số các bệnh nhân của ông bị mất 21 gram sau khi chết và có một cách giải thích hợp lý cho hiện tượng này: sau khi chết, hai lá phổi không còn thực hiện chức năng làm nguội máu nên có thể xuất hiện tình trạng toát mồ hôi. Lượng nước mất đi trong quá trình toát mồ hôi sau khi chết có thể lên đến 21 gram. Còn về trường hợp của những chú chó tội nghiệp, chúng sẽ không thể mất nước vì chúng không có tuyến mồ hôi.
Hiện tượng giọng nói điện tử
Người đàn ông đầu tiên đã thử tiếp xúc với thế giới linh hồn là nhiếp ảnh gia người Mỹ Atilla von Szalay. Những thí nghiệm đầu tiên của ông được tiến hành vào năm 1941 với đĩa hát 78 rpm. Nhưng ông đã không gặp may mắn với chúng. Szalay gặt hái được ‘thành công’ đầu tiên vào năm 1956, khi ông bắt đầu sử dụng máy thâu băng. Một số thông điệp ông ghi nhận được là “Hotdog, Art!”, “This is G!” (Đây là G!) và “Merry Christmas and Happy New Year to you all!” (Giáng sinh vui vẻ và Chúc mừng năm mới tất cả mọi người!).
Máy thâu băng |
Chiếc hộp ma Ghost Box của Frank Sumption |
Houdini nhận thấy những thông điệp như vậy không thể nào đến từ người mẹ của mình. Thứ nhất, những thông điệp này được truyền tải bằng tiếng Anh, trong khi mẹ ông chưa từng nói thứ tiếng này. Mặt khác, những thầy cúng cũng đề cập đến cây thập tự của đạo Kitô trong khi mẹ ông là người theo đạo Do Thái. Những điểm đáng ngờ này đã khiến Houdini tin rằng những buổi gọi hồn mà ông tham dự thực chất chỉ là một màn bịp bợm. Tuy vậy ông cũng nghĩ cách để vẫn có thể thách thức họ sau khi ông chết.
Để ngăn ngừa khả năng những kẻ bị nhập hồn tuyên bố liên lạc được với ông sau khi ông chết, Houdini đã thiết lập một mật mã bí mật mà chỉ có ông và vợ biết. Mật mã chứa 10 từ ngẫu nhiên từ một lá thư ông nhận được từ Doyle.
Những người tham gia thí nghiệm của Persinger đã báo cáo cảm nhận được sự hiện hữu của các sinh mệnh, ví như các thiên thần hay thân nhân quá cố. Một người tham gia thậm chí còn tuyên bố đã tiếp xúc với Chúa. Thí nghiệm này đã khiến giới truyền thống gọi thiết bị của Persinger là mũ bảo hiểm God Helmet (mũ bảo hiểm của Chúa). Chính Persinger cũng liên tục khẳng định rằng 4 trong số 5 người đeo mũ đã cảm nhận được sự hiện hữu của các sinh linh hoặc sinh mệnh.
Năm 2004, một nhóm các nhà nghiên cứu người Thụy Điển đã cố gắng tái lập thí nghiệm này dưới các điều kiện có kiểm soát nhưng không thành. Họ đưa ra kết luận rằng các kết quả thí nghiệm của Persinger đã bị làm thiên lệch bởi chính tính nhạy cảm của các thành viên tham gia vì họ không tìm thấy mối liên hệ giữa từ trường yếu của chiếc mũ và các trạng thái nhận thức biến đổi.
Không nản lòng, Persinger và nhóm của ông đã phát triển một thiết bị khác tên là The Octopus (Bạch tuộc). Thiết bị này là một chiếc máy tăng cường cảm xúc đồng thời là máy sản sinh trạng thái biến đổi. Một nhóm nghiên cứu đã thí nghiệm nó và phát hiện thấy nó cũng không có ảnh hưởng gì khác biệt khi bật hay tắt. Tuy nhiên, họ nhận định, “cần tiến hành… các nghiên cứu bổ sung”.
Luân hồi-Thôi miên hồi quy
Hơn 40 năm trước, thôi miên hồi quy (hypnotic regression) đã được sử dụng phổ biến bởi các học giả phương Tây để phục vụ nghiên cứu về luân hồi. Sau đó, liệu pháp tiền kiếp (past-life therapy) đã vận dụng khái niệm luân hồi vào trị liệu và bổ sung cho phương pháp thôi miên hồi quy. Khía cạnh đáng kinh ngạc nhất của liệu pháp tiền kiếp chính là các triệu chứng của bệnh nhân có thể biến mất một cách bí ẩn sau khi họ “thấy” được tiền kiếp của chính họ.
Trong cuốn sách “Many Lives, Many Masters”, Tiến sĩ Brian Weiss đã kể về một người phụ nữ tên là Katherine, người đã phải chịu đựng đủ loại chứng ám ảnh và u sầu trong nhiều năm. Khi bà trải qua một cuộc thôi miên hồi quy, bà thấy rằng mình đã từng là một cô gái trẻ tên là Alonda, người đã chết trong một trận lụt bất ngờ. Ngôi làng của cô đã hoàn toàn bị phá hủy. “Những cơn sóng dữ tợn ập vào các hàng cây. Không còn nơi nào để chạy nữa. Trời rất lạnh. Nước càng lạnh hơn. Tôi muốn cứu con tôi, nhưng tất cả những gì tôi có thể làm chỉ là ôm nó thật chặt vào lòng. Tôi trầm xuống và bị nhấn chìm bởi dòng nước. Tôi không thể thở.” Thật khó tin, sau khi áp dụng phương pháp trị liệu này, các triệu chứng như nghẹt thở và tuyệt vọng của Katherine đã biến mất. Đây là một trường hợp có thật được ghi chép. Thành công này đã khiến Tiến sĩ Weiss, từ một người không tin trở thành người tin tưởng mạnh mẽ vào luân hồi.
“Pursue the Past and Cherish Today”, một cuốn sách khác được viết bởi Tiến sĩ Weiss, đã kể lại một câu chuyện khác. Jack là một viên phi công dày dạn, có trách nhiệm và đáng tin cậy. Tuy nhiên, anh luôn cảm thấy giận dữ, và tính nóng nảy này cuối cùng khiến anh dễ phát hỏa như một cái núi lửa. Anh không thể chịu đựng nổi gia đình và đã bỏ rơi họ. Anh cũng phải chịu đựng đủ nỗi ám ảnh khó giải thích. Hàng ngày, vào mỗi buổi sáng, khi vận hành chiếc máy bay, anh thường nhìn ra ngoài cửa sổ một cách lo lắng để chắc chắn rằng cánh bên phải của báy bay vẫn còn ở đó. Ngoài ra, anh thức dậy vào mỗi buổi sáng với nỗi sợ rằng những chiếc cánh máy bay có thể rơi ra. Với sự trợ giúp của liệu pháp thôi miên hồi quy, anh đã khám phá ra rằng anh từng là một phi công thuộc lực lượng không quân Đức Quốc Xã trong chiến tranh thế giới thứ II. Cánh bên phải chiếc máy bay của anh đã bị trúng hỏa lực, và anh đã chết khi máy bay lao xuống đất. Anh đã cảm thấy nhẹ nhõm sau khi tìm được căn nguyên của sự phẫn nộ vô cớ mà anh phải chịu đựng trong đời này. Chứng ám ảnh của anh cũng biến mất hai tuần sau đó.
Những trường hợp tương tự có rất nhiều. Đa số là về các bệnh nhân mà sau khi hồi tưởng lại tiền kiếp, họ trở nên hạnh phúc và an hòa hơn. Họ dễ dàng đối mặt với khó khăn và cải thiện quan hệ với mọi người. Họ trở nên độc lập, vui vẻ và thích giúp đỡ người khác hơn. Điều này đã chứng tỏ rằng nhiều bệnh nhân, sau khi nhớ lại tiền kiếp, đã cải biến nội tâm và có cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống. Họ trở nên khoan dung và tốt bụng hơn.