AI và DNA giải mã những bí ẩn của chuỗi cung ứng toàn cầu như thế nào?

Nhịp đập khoa học - Ngày đăng : 23:36, 07/04/2023

Các công ty đang chuyển sang sử dụng công nghệ tiên tiến để giúp trả lời câu hỏi hóc búa đáng ngạc nhiên: Sản phẩm thực sự đến từ đâu?

Tại một máy tách bông ở Thung lũng San Joaquin, bang California, Mỹ, cỗ máy hình hộp giúp phun một làn sương mịn chứa hàng tỉ phân tử DNA lên bông Pima mới được làm sạch.

DNA đó sẽ hoạt động như một loại mã vạch siêu nhỏ, nằm giữa các sợi bông khi chúng được vận chuyển đến các nhà máy ở Ấn Độ. Ở đó, bông sẽ được quấn thành sợi và dệt thành ga trải giường, trước khi lên kệ của các cửa hàng Costco ở Mỹ. Bất cứ lúc nào, cửa hàng Costco có thể kiểm tra sự hiện diện của DNA để đảm bảo rằng bông trồng ở Mỹ của họ không bị thay thế bằng các nguyên liệu rẻ hơn, như bông từ vùng Tân Cương ở Trung Quốc, bị cấm ở Mỹ vì có liên quan đến hành vi cưỡng bức lao động.

Với sự lo ngại gia tăng về tính không minh bạch và lạm dụng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, các công ty và quan chức chính phủ đang ngày càng chuyển sang sử dụng các công nghệ như theo dõi ADN, trí tuệ nhân tạo (AI) và blockchain để kiểm tra nguyên liệu thô từ nguồn cung đến cửa hàng.

Các công ty ở Mỹ hiện phải tuân theo các quy tắc mới yêu cầu chứng minh hàng hóa của họ được sản xuất mà không có lao động cưỡng bức, nếu không sẽ bị tịch thu tại biên giới.

Quan chức hải quan Mỹ cho biết vào tháng 3 đã thu giữ các lô hàng trị giá gần 1 tỉ USD đến Mỹ bị nghi ngờ có một số mối quan hệ với Tân Cương. Các sản phẩm từ khu vực này đã bị cấm từ tháng 6.2022.

Khách hàng cũng đang yêu cầu bằng chứng rằng các sản phẩm cao cấp, đắt tiền như kim cương không liên quan đến xung đột, bông hữu cơ, cá ngừ loại sushi hoặc mật ong Manuka, là hàng thật và được sản xuất theo cách bền vững về mặt đạo đức, môi trường.

Kim cương không liên quan đến xung đột được khai thác và bán ra trên thị trường mà không liên quan đến bất kỳ hoạt động buôn bán vũ khí hay tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang, không khai thác bằng trẻ em hoặc lao động bị cưỡng bức, không xâm phạm quyền con người và không gây hại cho môi trường.

Điều đó đã đưa ra một thực tế mới với các công ty lâu nay dựa vào một loạt nhà máy toàn cầu để cung cấp hàng hóa. Hơn bao giờ hết, các công ty phải có khả năng giải thích rõ ràng nguồn gốc sản phẩm của mình.

Nhiệm vụ dường như đơn giản nhưng có thể phức tạp bất ngờ. Đó là bởi chuỗi cung ứng quốc tế mà các công ty đã xây dựng những thập kỷ gần đây để cắt giảm chi phí và đa dạng hóa sản phẩm của họ trở nên phức tạp đáng kinh ngạc. Kể từ năm 2000, giá trị hàng hóa trung gian được sử dụng để sản xuất các sản phẩm trong giao dịch quốc tế đã tăng gấp ba lần, một phần được thúc đẩy bởi các nhà máy phát triển mạnh tại Trung Quốc.

ai-dna-giai-ma-bi-an-chuoi-cung-ung-toan-cau1.jpg
Kỹ thuật viên tại Applied DNA Sciences thử nghiệm các mẫu để theo dõi nguyên liệu thô - Ảnh: The New York Times
ai-dna-giai-ma-bi-an-chuoi-cung-ung-toan-cau.jpg
Các mẫu bông đang được xử lý tại phòng thí nghiệm - Ảnh: The New York Times

Một công ty lớn đa quốc gia có thể mua các bộ phận, vật liệu hoặc dịch vụ từ hàng ngàn nhà cung cấp trên khắp thế giới. Procter & Gamble, một trong những công ty lớn nhất như vậy, sở hữu các thương hiệu như Tide, Crest và Pampers, có gần 50.000 nhà cung cấp trực tiếp. Mỗi nhà cung cấp đó có thể dựa vào hàng trăm công ty khác để có các bộ phận được sử dụng để tạo ra sản phẩm của mình trong nhiều cấp độ trên chuỗi cung ứng.

Ví dụ, để sản xuất một chiếc quần jean, nhiều công ty phải trồng và làm sạch bông, kéo thành sợi, nhuộm màu, dệt thành vải, cắt vải thành mẫu và khâu quần jean lại với nhau. Các mạng lưới công ty khai thác, nấu chảy hoặc chế biến đồng thau, nickel hoặc nhôm để tạo thành khóa kéo, hoặc tạo ra các hóa chất được sử dụng để sản xuất thuốc nhuộm xanh tổng hợp.

"Chuỗi cung ứng giống như một bát mì Ý. Chúng được trộn lẫn khắp nơi. Bạn không biết những thứ đó đến từ đâu", theo James McGregor, Chủ tịch khu vực Trung Quốc của công ty tư vấn APCO Worldwide.

Với những thách thức này, một số công ty đang chuyển sang các phương pháp thay thế, không phải tất cả đều được chứng minh, để cố gắng kiểm tra chuỗi cung ứng của họ.

Một số công ty như Applied DNA Sciences (phun sương DNA lên bông) đang sử dụng các quy trình khoa học để gắn thẻ hoặc kiểm tra thuộc tính vật lý của chính hàng hóa, để tìm ra nơi hàng hóa đã đi đâu trên đường từ nhà máy đến người tiêu dùng.

Applied DNA Sciences đã sử dụng các thẻ DNA tổng hợp của mình, mỗi thẻ có kích thước chỉ bằng một phần tỷ của hạt đường, để theo dõi các vi mạch được sản xuất cho Bộ Quốc phòng Mỹ; kiểm tra chuỗi cung ứng cần sa để đảm bảo độ tinh khiết của sản phẩm và thậm chí là truy tìm những tên cướp ở Thụy Điển đã cố gắng để ăn cắp tiền mặt từ các máy ATM, dẫn đến nhiều vụ bắt giữ.

MeiLin Wan, Phó chủ tịch mảng dệt may của Applied DNA Sciences, cho biết các quy định mới đang tạo ra “điểm bùng phát cho sự minh bạch thực sự”.

Chắc chắn là có nhiều sự quan tâm hơn”, bà nói thêm.

Ngành công nghiệp bông là một trong những ngành áp dụng sớm nhất các công nghệ theo dõi, một phần là do các vi phạm trước đây. Vào giữa những năm 2010, Target, Walmart và Bed Bath & Beyond đã phải đối mặt với các vụ kiện hoặc thu hồi sản phẩm đắt tiền sau khi các tấm chăn “bông Ai Cập” mà họ bán hóa ra được làm bằng bông từ nơi khác. Một cuộc điều tra của tờ The New York Times năm ngoái đã ghi lại rằng ngành công nghiệp “bông hữu cơ” cũng đầy gian lận.

Ngoài việc sử dụng sương DNA như một điểm đánh dấu, Applied DNA Sciences có thể tìm ra nguồn gốc bông bằng cách giải trình tự DNA của chính bông hoặc phân tích các đồng vị của nó, là các biến thể trong các nguyên tử carbon, oxy và hydro trong bông. Sự khác biệt về lượng mưa, vĩ độ, nhiệt độ và điều kiện đất có nghĩa là các nguyên tử này khác nhau một chút giữa các khu vực trên thế giới, cho phép các nhà nghiên cứu lập bản đồ bông trong một đôi tất hoặc khăn tắm đến từ đâu.

Các công ty khác đang chuyển sang công nghệ kỹ thuật số để lập bản đồ chuỗi cung ứng, bằng cách tạo và phân tích cơ sở dữ liệu phức tạp về quyền sở hữu và thương mại của công ty.

Ví dụ, một số công ty đang sử dụng công nghệ blockchain để tạo mã thông báo kỹ thuật số cho mọi sản phẩm mà nhà máy sản xuất. Khi sản phẩm đó, chẳng hạn một lon trứng cá muối hoặc một lô cà phê, di chuyển qua chuỗi cung ứng, bản sao kỹ thuật số của nó được mã hóa với thông tin về cách nó được vận chuyển và chế biến, cung cấp nhật ký minh bạch cho các công ty và người tiêu dùng.

Các công ty khác đang sử dụng cơ sở dữ liệu hoặc AI để rà soát những mạng lưới nhà cung cấp rộng lớn để tìm các liên kết từ xa đến các thực thể bị cấm trong các mạng lưới nhà cung cấp hoặc để phát hiện các mô hình thương mại bất thường cho thấy sự gian lận. Các cuộc điều tra có thể mất nhiều năm để thực hiện nếu không có sức mạnh tính toán.

Sayari, nhà cung cấp thông tin về rủi ro doanh nghiệp đã phát triển một nền tảng kết hợp dữ liệu từ hàng tỉ hồ sơ công khai được phát hành trên toàn cầu, là một trong những công ty đó. Dịch vụ này hiện được sử dụng bởi các đặc vụ hải quan Mỹ cũng như các công ty tư nhân. Gần đây, Jessica Abell, Phó chủ tịch phụ trách giải pháp của Sayari, đã chạy danh sách nhà cung cấp của một nhà bán lẻ lớn của Mỹ thông qua nền tảng này và quan sát hàng chục lá cờ đỏ nhỏ xuất hiện bên cạnh tên của các công ty xa xôi.

Jessica Abell cho biết: “Chúng tôi không chỉ gắn cờ các công ty Trung Quốc ở Tân Cương mà còn tự động khám phá các mạng lưới thương mại của họ và gắn cờ các công ty có kết nối trực tiếp với nó”. Chính các công ty đó quyết định liệu sẽ thực hiện các hành động để giảm thiểu rủi ro đó hay không.

Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng hầu hết công ty đều có rất ít khả năng quan sát đến các cấp cao hơn trong chuỗi cung ứng của họ, bởi hiếu nguồn lực hoặc động lực để điều tra.

Trong một cuộc khảo sát năm 2022 của McKinsey & Company, 45% số người được hỏi cho biết hoàn toàn không biết gì về chuỗi cung ứng của mình ngoài các nhà cung cấp trực tiếp.

Thế nhưng, việc ở trong bóng tối không còn khả thi với các công ty, đặc biệt là ở Mỹ, sau khi Quốc hội áp đặt lệnh cấm nhập khẩu các sản phẩm từ Tân Cương có hiệu lực vào năm ngoái. Chính phủ Mỹ cho rằng Tân Cương là nơi 100.000 người dân tộc thiểu số đang làm việc trong điều kiện bị cưỡng bức.

ai-dna-giai-ma-bi-an-chuoi-cung-ung-toan-cau12.jpg
Công nhân Duy Ngô Nhĩ tại một nhà máy may mặc ở khu vực Tân Cương của Trung Quốc vào năm 2019 - Ảnh: The New York Times

Các liên kết của Tân Cương với một số sản phẩm đã được nhiều người biết đến. Các chuyên gia đã ước tính rằng khoảng 1 trên 5 sản phẩm quần áo bông được bán trên toàn cầu có chứa bông hoặc sợi từ Tân Cương. Khu vực này cũng chịu trách nhiệm cung cấp cho thế giới hơn 40% polysilicon (được sử dụng trong các tấm pin mặt trời) và 1/4 số lượng bột cà chua. Song, các ngành công nghiệp khác, như ô tô, sàn vinyl và nhôm, dường như cũng có mối liên hệ với các nhà cung cấp ở Tân Cương và đang chịu sự giám sát chặt chẽ hơn từ các cơ quan quản lý.

Có được bức tranh đầy đủ về chuỗi cung ứng của họ có thể mang lại cho các công ty những lợi ích khác, chẳng hạn như giúp thu hồi các sản phẩm bị lỗi hoặc giảm chi phí. Thông tin ngày càng cần thiết để ước tính lượng khí CO2 thực sự thải ra trong quá trình sản xuất hàng hóa hoặc để đáp ứng các quy tắc khác của chính phủ yêu cầu sản phẩm phải có nguồn gốc từ những nơi cụ thể, chẳng hạn quy định mới của chính quyền Biden về tín dụng thuế xe điện.

Lãnh đạo các hãng công nghệ hình dung ra một tương lai, có lẽ thập kỷ tới, trong đó hầu hết chuỗi cung ứng đều có thể truy xuất nguồn gốc hoàn toàn, một sự phát triển vượt bậc từ cả các quy định chặt chẽ hơn của chính phủ và việc áp dụng công nghệ rộng rãi hơn.

Leonardo Bonanni, Giám đốc điều hành Sourcemap, giúp các công ty như nhà sản xuất sô-cô-la Mars vạch ra chuỗi cung ứng của họ, nói: “Điều đó hoàn toàn có thể thực hiện được. Nếu bạn muốn tiếp cận thị trường Mỹ cho hàng hóa của mình, đó là một cái giá nhỏ phải trả”.

Những người khác bày tỏ sự hoài nghi về những hạn chế của những công nghệ này, bao gồm cả chi phí của chúng. Ví dụ, trong khi công nghệ của Applied DNA Sciences chỉ tăng thêm từ 5 đến 7 cent vào giá một bộ quần áo thành phẩm, điều đó có thể có ý nghĩa với các nhà bán lẻ đang cạnh tranh trên mức lợi nhuận thấp.

Một số người bày tỏ lo ngại về tính chính xác, chẳng hạn như cơ sở dữ liệu có thể gắn cờ các công ty không chính xác. Họ nói rằng các nhà điều tra vẫn cần phải có mặt tại địa phương để nói chuyện với công nhân và cảnh giác với các dấu hiệu cưỡng bức lao động hoặc lao động trẻ em có thể không xuất hiện trong hồ sơ kỹ thuật số.

Justin Dillon, Giám đốc điều hành FRDM, tổ chức phi lợi nhuận muốn chấm dứt tình trạng cưỡng bức lao động , cho biết có “rất nhiều lo lắng, rất nhiều bối rối” giữa các công ty đang cố gắng đáp ứng các yêu cầu mới của chính phủ.

Sơn Vân