Cựu Tư lệnh Cảnh sát biển Nguyễn Văn Sơn lĩnh án 16 năm tù
Sự kiện - Ngày đăng : 16:59, 29/06/2023
Chiều 29.6, HĐXX Tòa án Quân sự thủ đô Hà Nội đã tuyên án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn Sơn (cựu trung tướng, cựu Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam) và 6 bị cáo khác về tội “Tham ô tài sản”.
Cụ thể, HĐXX quyết định tuyên phạt Nguyễn Văn Sơn 16 năm tù; Hoàng Văn Đồng (cựu trung tướng, cựu Chính ủy Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển) 15 năm 6 tháng tù.
Doãn Bảo Quyết (cựu thiếu tướng, cựu Phó chính ủy) 15 năm tù; Phạm Kim Hậu (cựu thiếu tướng, cựu Tham mưu trưởng) 15 năm tù; Bùi Trung Dũng (cựu thiếu tướng, cựu Phó tư lệnh) 15 năm tù; Nguyễn Văn Hưng (cựu đại tá, cựu Phó tư lệnh) 10 năm tù; Bùi Văn Hòe (cựu thượng tá, cựu Phó phòng tài chính) 12 năm tù.
Theo nhận định của HĐXX, quá trình điều tra và tại phiên tòa cho thấy lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của những người làm chứng.
Cụ thể, năm 2019, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển phân bổ 150 tỉ đồng ngân sách nhà nước cho Cục Kỹ thuật để mua sắm vật tư, thiết bị. Trung tướng Nguyễn Văn Sơn khi đó gặp, yêu cầu đại tá Hưng, Cục trưởng Kỹ thuật “phải rút ra 50 tỉ đồng để chuyển lại cho Bộ Tư lệnh sử dụng”.
Tháng 4.2019, tại phòng ăn của thủ trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, ông Sơn cùng trung tướng Hoàng Văn Đồng và 3 thiếu tướng Doãn Bảo Quyết, Phạm Kim Hậu, Bùi Trung Dũng bàn về việc “rút” 50 tỉ đồng từ ngân sách phân bổ cho Cục Kỹ thuật. Tất cả đồng ý nên ông Sơn sau đó chỉ đạo Hưng thực hiện.
Ông Hưng lại yêu cầu 6 trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Kỹ thuật phải rút đủ 50 tỉ đồng và cho rằng “phải xác định việc rút lại 50 tỉ đồng là nhiệm vụ thủ trưởng giao và phải hoàn thành”.
Sau đó, mỗi trưởng phòng dưới quyền đại tá Hưng được giao chỉ tiêu phải rút từ 50 triệu đồng đến 25 tỉ đồng để đủ mức 50 tỉ đồng mà ông Sơn yêu cầu. Những trưởng phòng này phân chia nguồn ngân sách thành 29 gói thầu, trong đó có 9 gói giá trị dưới 10 tỉ đồng để Tư lệnh Cảnh sát biển phê duyệt, không phải báo cáo Bộ Quốc phòng.
Với số tiền này, ông Sơn chia cho mình và 4 ông Đồng, Hậu, Quyết và Dũng, mỗi người 10 tỉ đồng. Sau khi bị phát hiện, họ đã nộp lại số tiền này.
Từ đó, HĐXX xét thấy Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội “Tham ô tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Đối với bị cáo Hưng và Hòe, HĐXX nhận định dù không được hưởng lợi nhưng quy định của pháp luật buộc bị cáo phải biết và chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Theo nhận định của HĐXX, tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi sai phạm của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh của lực lượng cảnh sát biển.
Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, HĐXX xét thấy các bị cáo đã thành khẩn khai báo, các bị cáo đã nộp lại số tiền tham ô. Ngoài ra, theo HĐXX, các bị cáo có nhiều bằng khen, giấy khen, nhiều thành tích trong quá trình công tác nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội có thành tích trong quá trình công tác”…
Xem xét toàn diện vụ án, theo HĐXX, đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Sơn chủ động trao đổi với 4 bị cáo khác về việc rút 50 tỉ đồng để chia cho các tư lệnh nên Sơn phải chịu trách nhiệm chính. Các bị cáo khác là người tiếp nhận ý chí, là đồng phạm với Sơn.
Đối với bị cáo Hưng và Hòe, HĐXX nhận định dù 2 bị cáo này không được hưởng lợi ích vật chất nhưng là người giúp sức cho những bị cáo trên chiếm đoạt 50 tỉ đồng. Tuy nhiên, theo HĐXX, bị cáo Hòe khai báo có những nội dung chưa rõ ràng cho thấy bị cáo chưa thực sự thành khẩn nên cần áp dụng hình phạt cao hơn bị cáo Hưng.
Về trách nhiệm dân sự, theo HĐXX, các bị cáo đã chủ động nộp lại 50 tỉ đồng cho Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển (mỗi người 10 tỉ đồng) và tại tòa bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường. Xét thấy, việc bồi thường đã được giải quyết xong nên HĐXX ghi nhận điều này.