Tăng trưởng chậm lại, rủi ro gia tăng
Thị trường và chính sách - Ngày đăng : 15:06, 13/08/2023
Tăng trưởng giảm mạnh, sức cầu yếu
Sau khi đạt tốc độ tăng trưởng GDP thực ở mức 8% trong năm 2022, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giảm mạnh trong nửa đầu năm 2023, do sức cầu bên ngoài giảm mạnh, đồng thời cầu trong nước cũng đang yếu đi.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), tăng trưởng GDP thực (theo giá so sánh) của Việt Nam giảm còn 3,7% (so cùng kỳ năm trước) trong nửa đầu năm 2023, thấp hơn nhiều so với số liệu tăng trưởng báo cáo cho nửa đầu năm 2022 (6,4%, so cùng kỳ).
Tăng trưởng giảm đà có nguyên nhân do sức cầu bên ngoài giảm mạnh, thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu giảm 12% so cùng kỳ năm trước trong 6 tháng đầu năm 2023. Điều này ảnh hưởng đến kết quả của khu vực xuất khẩu, ước đóng góp khoảng 50% cho GDP của Việt Nam.
Ngoài ra, sức cầu trong nước cũng chững lại do sự giảm dần hiệu ứng xuất phát điểm thấp của giai đoạn phục hồi sau dịch COVID trong năm ngoái và do niềm tin của người tiêu dùng đang yếu đi. Tốc độ tăng trưởng chi tiêu tiêu dùng cuối giảm chỉ còn 2,7% so với cùng kỳ năm trước trong nửa đầu năm, so với mức 6,1% (so cùng kỳ) trong 6 tháng đầu năm 2022.
Mặc dù đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn đứng vững và đầu tư công tăng nhẹ, nhưng tốc độ tăng đầu tư toàn xã hội vẫn bị giảm, do tăng trưởng đầu tư của khu vực tư nhân trong nước giảm mạnh xuống còn 2,4% so cùng kỳ, sau khi đạt mức 11,8% (so cùng kỳ) vào năm trước.
Các doanh nghiệp và thị trường lao động cũng đều chịu ảnh hưởng tiêu cực khi kinh tế trầm xuống. Qua một khảo sát 10.000 doanh nghiệp vào tháng 4.2023 của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân, 60,1% các doanh nghiệp cho biết doanh thu bị giảm ít nhất 20% trong 4 tháng đầu năm 2023, 59,2% cho biết đơn hàng bị giảm, và 71,2% cho biết phải cắt giảm ít nhất 5% lao động trong 4 tháng đầu năm.
Cú sốc cầu bên ngoài đặc biệt gây ảnh hưởng đến các doanh nghiệp và người lao động trong các lĩnh vực chế tạo chế biến định hướng xuất khẩu, trong đó một số địa bàn xuất khẩu trọng tâm như khu vực Đông Nam Bộ (bao gồm TP.HCM và các tỉnh lân cận) phải chứng kiến số người được phê duyệt nhận trợ cấp thất nghiệp tăng vọt gần 62% trong quý 2/2023 so với quý đầu cùng năm.
Giai đoạn khó khăn nhất đã qua?
Chuyên gia kinh tế, PGS-TS Đinh Trọng Thịnh cho biết có nhiều dự báo khác nhau về tăng trưởng năm nay và năm tới của các tổ chức lớn cũng như giới chuyên gia. Thậm chí, một số tổ chức đã hạ dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm nay so với trước đó. Tuy nhiên, xu hướng kinh tế đã có chiều hướng tốt lên khi những đơn hàng xuất khẩu đã bắt đầu hồi phục sau một giai đoạn giảm; tiêu dùng trong nước cũng đang có sự tăng trở lại và giải ngân đầu tư công đang được thúc đẩy.
Ngoài ra, trong thời gian qua, ông Thịnh cho biết có rất nhiều các biện pháp kích cầu, như giảm 2% thuế GTGT, giảm phí, lệ phí cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, giảm lãi suất… giúp giảm chi phí sản xuất, lợi nhuận tăng lên và doanh nghiệp có điều kiện hạ giá thành, cũng như triển khai các chương trình khuyến mãi, hậu mãi…
Do vậy, ông Thịnh cho rằng mục tiêu tăng trưởng có thể đạt được như chỉ tiêu Quốc hội đề ra.
Theo ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - CIEM), kinh tế thế giới còn rất nhiều khó khăn nhưng đã có một số chuyển biến.
Ông Dương phân tích, xu hướng tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát vẫn hiện hữu, song không còn là chủ đạo. Mặc dù Fed vẫn giữ thông điệp về khả năng tăng lãi suất nhưng đã có sự đảo chiều ở một số nước, thậm chí tại Việt Nam, trong nửa đầu năm NHNN đã 2 lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành.
Theo đó, mặc dù mặt bằng lãi suất hạ song tín dụng vẫn tăng trưởng chậm. Xét tương quan giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP cho thấy sự đồng điệu, khi tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm thì tăng trưởng GDP cũng giảm.
Vẫn đối mặt nhiều rủi ro
Theo WB, nền kinh tế Việt Nam dự kiến tăng trưởng 4,7% trong năm 2023, với dự báo phục hồi dần lên 5,5% vào năm 2024 và 6,0% vào năm 2025. Tuy có chững lại, nhưng cầu trong nước dự kiến vẫn là động lực tăng trưởng chính trong năm 2023. Tiêu dùng tư nhân sẽ vẫn đứng vững - với tốc độ tăng 6,0% (so cùng kỳ), tuy có giảm nhẹ xuống dưới mức tăng trước đạt dịch là 7% (so cùng kỳ) vào năm 2019, đóng góp 3,4 điểm phần trăm cho tăng trưởng GDP.
Về tổng thể, đầu tư sẽ đóng góp 1,8 điểm phần trăm cho tăng trưởng GDP. Đầu tư tư nhân dự kiến sẽ giảm nhẹ, với tốc độ tăng 4,3% (so cùng kỳ), so với 8,2% (so cùng kỳ) năm 2019, do những bất định ở môi trường bên ngoài, đóng góp 1,2 điểm phần trăm cho tăng trưởng GDP. Đầu tư công dự kiến sẽ được đẩy mạnh, tăng 9,5% (so với cùng kỳ).
Triển vọng thời gian tới, WB đánh giá Việt Nam sẽ phải đối mặt với rủi ro gia tăng trong nước và bên ngoài. Nhìn từ bên ngoài, tăng trưởng thấp hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển và Trung Quốc có thể tiếp tục làm giảm sức cầu bên ngoài đối với khu vực xuất khẩu của Việt Nam, với quy mô ước bằng khoảng 50% GDP.
“Những bất định kéo dài trên thị trường tài chính toàn cầu có khả năng lại làm dấy lên căng thẳng trong khu vực ngân hàng trên toàn cầu, càng khiến cho các nhà đầu tư né tránh rủi ro và không khuyến khích đầu tư, bao gồm cả đầu tư vốn FDI vào Việt Nam”, WB nêu.
Ngoài ra, chính sách tiền tệ thắt chặt mạnh mẽ hơn ở các nền kinh tế phát triển quy mô lớn nhằm chống lạm phát kéo dài có thể nới rộng chênh lệch lãi suất giữa thị trường trong nước và quốc tế. Điều này có thể gây áp lực về tỷ giá đối với đồng nội tệ.
Hơn nữa, căng thẳng địa chính trị leo thang và thiên tai liên quan đến khí hậu có thể làm gia tăng rủi ro theo hướng không khả quan cho Việt Nam, bao gồm cả thông qua giá lương thực thực phẩm và nhiên liệu tăng lên. Nhìn từ trong nước, khu vực tài chính đang đối mặt với những rủi ro và nguy cơ dễ tổn thương ngày càng lớn, đòi hỏi phải theo dõi chặt chẽ và tiến hành đổi mới.