Nghiên cứu về rắn đuôi chuông tiết lộ bản đồ cổ của Nam Mỹ
Khoa học - công nghệ - Ngày đăng : 21:29, 18/07/2020
Rắn đuôi chuông được tìm thấy ở những vùng khô, khô cằn ở Nam Mỹ và những thảo nguyên nhỏ ở vùng Amazon. Hầu hết những con rắn đuôi chuông đều rất độc. Lượng nọc độc của chúng có thể nhanh chóng làm tê liệt hệ thần kinh của các con mồi như chuột, chim và một số loại động vật nhỏ khác, sau đó khiến cho tim của nạn nhân ngừng đập chỉ một vài phút sau khi bị cắn.
Các trường hợp bị rắn đuôi chuông cắn đa phần do bị dẫm lên hoặc bước gần chúng. Khi bị cắn bởi rắn đuôi chuông, chất độc từ răng nanh của chúng sẽ ngấm vào vết thương, vào máu, làm phá vỡ các tế bào thành mạch và gây ra hiện tượng chảy máu bên trong rất nguy hiểm. Vết thương sẽ sưng lên và đau dữ dội. Kèm theo đó, nạn nhân sẽ cảm thấy lo lắng, buồn nôn và dần yếu đi, suy tim và chết sau đó từ 6 đến 48 tiếng. Nếu được cứu chữa bằng huyết thanh trong 2 tiếng đầu tiên, nạn nhân sẽ có cơ hội hồi phục nhanh chóng. Trẻ em khi bị rắn cắn thường bị các triệu chứng nguy hiểm hơn người lớn.
Theo thống kê ở Mỹ, mỗi năm có khoảng 7.000 đến 8.000 nạn nhân bị rắn đuôi chuông cắn với khoảng 10 người chết. Rắn đuôi chuông ăn các loài chim và loài gặm nhấm, do đó chúng đóng một vai trò sinh thái quan trọng trong việc hạn chế dân số loài gặm nhấm phá hoại mùa màng và ổn định hệ sinh thái.
Tiến sĩ Edward Myers - chuyên gia nghiên cứu về động vật lưỡng cư và bò sát tại bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Mỹ - đã xây dựng các mô hình giả lập môi trường cho rắn đuôi chuông ở Nam Mỹ cổ đại bằng cách sử dụng dữ liệu từ bộ sưu tập bảo tàng. Qua việc kết hợp các mô hình của mình với các hồ sơ di truyền từ các quần thể rắn đuôi chuông hiện tại, Myers có thể xác định và tái tạo phạm vi mà loài rắn có thể sống ở Nam Mỹ thời kỳ cổ đại.
Các mô hình khí hậu cho thấy cảnh quan lục địa Nam Mỹ thay đổi theo thời gian như thế nào. Khi môi trường thay đổi, một số vùng trở nên ít hiếu khách hơn đối với rắn đuôi chuông. Những con rắn này không còn có thể di chuyển qua lại nên chúng bắt đầu tiến hóa riêng biệt sau hàng ngàn năm.
Qua thời gian, sự khác biệt di truyền giữa các cộng đồng riêng biệt tăng lên. Các nhà sinh học tiến hóa có thể so sánh tỷ lệ phần trăm thay đổi di truyền giữa các quần thể để xác định thời điểm chúng tiến hóa.
Trang Nhung (theo Smithsonian)