Cai rượu trong 7,3 tháng giúp não bộ 'ma men' phục hồi như người bình thường

Kiến thức - Học thuật - Ngày đăng : 11:32, 11/11/2023

Một tin đáng khích lệ dành cho những người đang hồi phục sau chứng rối loạn sử dụng rượu. Nghiên cứu mới cho thấy não có thể tự phục hồi cấu trúc nhanh sau khi ngừng uống rượu.
ruou.jpg
Uống rượu làm tổn hại não bộ - Ảnh minh họa

Vùng vỏ não của người mắc chứng rối loạn thần kinh do sử dụng rượu (AUD) có xu hướng bị bào mòn. Ai cũng biết lớp vỏ nhăn nheo của não rất quan trọng đối với rất nhiều chức năng nhận thức bậc cao. Nghiên cứu mới đây của nhóm nhà khoa học Mỹ cho thấy vỏ não của những người bỏ rượu theo thời gian được bồi đắp dầy trở lại, nhanh hơn trong tháng đầu tiên. Và sau 7,3 tháng, độ dày vỏ não trở lại mức tương đương với những người không bị chứng AUD.

Các nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra rằng một số vùng có thể phục hồi khi ai đó ngừng uống rượu, nhưng vẫn chưa rõ mức độ phục hồi diễn ra nhanh như thế nào.

Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi bác sĩ tâm thần và khoa học hành vi Timothy Durazzo từ Đại học Stanford, cho biết: “Một số nghiên cứu điều tra chuyên sâu về sự thay đổi độ dày vỏ não trong quá trình cai rượu chỉ được giới hạn trong tháng đầu tiên. Tuy nhiên, mức độ phục hồi độ dày vỏ não khu vực sau một thời gian kiêng khem kéo dài (ví dụ: hơn 6 tháng) vẫn chưa được biết rõ".

Ước tính có khoảng 16 triệu người ở Mỹ mắc chứng AUD. Đây là một vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn và việc hiểu rõ chứng rối loạn phức tạp này là điều rất quan trọng để đề ra phương pháp điều trị, phòng ngừa và giảm bớt sự kỳ thị từ xã hội với các ma men "hoàn lương".

Những thay đổi về cấu trúc và chức năng của não trong quá trình sử dụng rượu lâu dài thường xuyên có thể khiến người ta khó ngừng uống rượu. Ví dụ, vỏ não trước trán – khu vực liên quan đến việc lập kế hoạch và ra quyết định – có thể hoạt động kém hiệu quả hơn, khiến  người bị chứng AUD khó đưa ra quyết định đúng đắn hơn.

Durazzo và các đồng nghiệp cũng kiểm tra xem một số tình trạng sức khỏe, tiền sử hút thuốc, tình trạng tâm thần và rối loạn sử dụng chất kích thích ảnh hưởng như thế nào đến sự thay đổi độ dày vỏ não ở những người đang hồi phục sau khi mắc chứng AUD.

Nhìn chung, 88 người bị chứng AUD tham gia vào nghiên cứu, đã trải qua quá trình quét não sau khoảng 1 tuần, 1 tháng và 7,3 tháng kiêng rượu. Khoảng 23 người chỉ tham gia sau 1 tháng, tức là họ không tham gia đợt quét não sau 1 tuần và chỉ 40 trong tổng số 88 người thực hiện đầy đủ việc kiêng rượu trong suốt quá trình tham gia.

Nhóm cũng xem xét 45 người chưa bao giờ bị mắc chứng AUD, đo độ dày vỏ não của những người này lúc ban đầu và đo lại khoảng 9 tháng sau để xác nhận các vùng được đo vẫn không thay đổi.

Nhóm đã sử dụng kỹ thuật chụp hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) để có được hình ảnh rõ ràng về cấu trúc bên trong bộ não của người tham gia. Các nhà nghiên cứu đã ghi lại độ dày vỏ não ở 34 vùng, lấy trung bình số đo trên bán cầu não trái và phải.

Sự phục hồi độ dày ở những người bị chứng AUD sau 7,3 tháng không uống rượu khá phổ biến. Tất cả 34 vùng vỏ não mà Durazzo và nhóm của ông xem xét đều nhận thấy tốc độ thay đổi độ dày nhanh hơn ở những người tham gia AUD từ 1 tuần đến 1 tháng sau khi bỏ rượu. Trong thời gian, từ 1 tháng đến 7,3 tháng sau khi cai rượu,  độ dày vỏ não vẫn tiếp tục được bồi đắp nhưng ở tốc độ chậm hơn.

Sự dày lên của vỏ não xảy ra không đồng đều mà chậm hơn ở những người cũng bị huyết áp cao hoặc cholesterol cao. Điều này đặc biệt đúng với những người vừa mắc chứng AUD lại vừa nghiện thuốc lá. Vì vậy, bỏ hút thuốc cũng có thể góp phần phục hồi độ dày vỏ não.

Những kết quả này mang lại sự khích lệ và hiểu biết mới về sự phục hồi của não sau khi cai rượu cho dù cỡ mẫu của công trình nghiên cứu khá nhỏ và thiếu đa dạng nên có thể nó không mang tính khái quát.

Điều cần lưu ý là những phát hiện này không cho biết liệu bỏ rượu có ảnh hưởng gì đến chức năng não hay không. Nhóm nghiên cứu viết: “Cần có các nghiên cứu sâu hơn để kiểm tra mối tương quan về nhận thức thần kinh và tâm lý xã hội của việc phục hồi độ dày vỏ não trong quá trình cai rượu kéo dài ở người mắc chứng AUD”.

Nhóm tác giả cũng chỉ ra rằng một vài biến số mà họ không tính đến, chẳng hạn như yếu tố di truyền, hoạt động thể chất và sức khỏe gan và phổi của người tham gia, có thể ảnh hưởng đến phát hiện của nhóm.

Các tác giả kết luận: “Dữ liệu này cung cấp thông tin liên quan đến tác động lâm sàng có lợi của việc duy trì trạng thái tỉnh táo từ góc độ hình thái bộ não và củng cố các tác động hiệu quả trong quá trình phục hồi dựa trên việc cai rượu ở người mắc AUD”.

Anh Tú