Rủi ro về khan hiếm nước ở Đông Nam Á đáng sợ nhất trong 1.000 năm

Nhịp đập khoa học - Ngày đăng : 19:20, 05/12/2023

Khi các triều đại cổ xưa ở Đông Nam Á nổi lên và suy tàn sau 1.000 năm qua, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những thử thách và khó khăn lịch sử đó có mối liên kết chặt chẽ với nguồn nước đến từ dãy núi Tây Tạng.
Nhịp đập khoa học

Rủi ro về khan hiếm nước ở Đông Nam Á đáng sợ nhất trong 1.000 năm

Sơn Vân 05/12/2023 19:20

Khi các triều đại cổ xưa ở Đông Nam Á nổi lên và suy tàn sau 1.000 năm qua, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những thử thách và khó khăn lịch sử đó có mối liên kết chặt chẽ với nguồn nước đến từ dãy núi Tây Tạng.

Song hiện nay, khi biến đổi khí hậu làm tăng tốc độ tan chảy của sông băng trên cao nguyên Tây Tạng, tác động đến khu vực đông dân cư ở Đông Nam Á có thể lớn hơn bất cứ điều gì xảy ra trong thiên niên kỷ qua, nhóm nghiên cứu do Trung Quốc dẫn đầu cảnh báo.

Bằng cách tái tạo hồ sơ dòng chảy sông trong 1.000 năm, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy mối tương quan chặt chẽ giữa dòng nước và thảm thực vật mùa khô trên Bán đảo Đông Dương. Họ cho rằng điều này cho thấy “tầm quan trọng của tháp nước Tây Tạng với chức năng và năng suất của các hệ sinh thái, xã hội ở Đông Nam Á".

Hiện tại, khu vực Đông Nam Á rộng lớn này có dân số và nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng, song cũng là điều sẽ tác động tiêu cực đến tình trạng khan hiếm nước.

Nhóm các chuyên gia quốc tế đến từ các viện nghiên cứu ở Argentina, Anh, Chile, Trung Quốc, Cộng hòa Séc, Đức, Thụy Sĩ và Mỹ cho biết các quốc gia cần tăng cường hợp tác để cải thiện chiến lược bảo tồn nước và duy trì nguồn nước của họ.

“Các biến động dòng chảy xuất hiện đồng thời với những thay đổi rõ rệt về dân cư địa phương xảy ra trong thời trung cổ, gồm cả sự chiếm đóng và sự sụp đổ sau đó của Angkor Wat từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 16. Dự đoán của chúng tôi cho thấy những thay đổi về dòng chảy trong tương lai sẽ đạt đến hoặc thậm chí vượt quá phạm vi lịch sử vào cuối thế kỷ này, gây ra những rủi ro chưa từng có cho Đông Nam Á”, nhóm nghiên cứu viết trong một bài báo đăng trên tạp chí khoa học tự nhiên Nature Geoscience.

Cao nguyên Tây Tạng được mệnh danh là “tháp nước châu Á”, vì các dòng sông được cấp nước từ sông băng chảy từ cao nguyên này là nguồn nước chính cho phần lớn khu vực Nam Á và Đông Nam Á. Nguồn cung cấp nước này rất quan trọng để cung cấp lương thực cho những khu vực đó, từ trồng lúa đến thu hoạch cá.

Trong nghiên cứu, nhóm chuyên gia đã tái tạo lại dòng chảy của sông Mê Kông, Salween và Yarlung Tsangpo từ năm 1000 cho đến năm 2018.

Điều này được thực hiện thông qua việc thu thập và xác định các mẫu từ những cây hàng trăm năm tuổi ở phía nam cao nguyên Tây Tạng, mà nhóm các nhà khoa học đã dành nhiều năm để thực hiện, theo tác giả chính Chen Feng, nhà nghiên cứu tại Đại học Vân Nam (Trung Quốc).

Bằng cách phân tích chiều rộng của các vòng sinh trưởng từ cây bách xù, cây vân sam và cây linh sam, họ có thể xác định nguồn cung cấp nước theo thời gian, vì cây phát triển nhiều hơn với lượng nước sẵn có cao hơn.

Theo các nhà nghiên cứu, việc tái tạo dòng chảy của những con sông cụ thể này rất quan trọng vì khu vực đông dân nhất thế giới nằm ở hạ lưu của ba sông này.

Mê Kông là con sông dài nhất Đông Nam Á, chảy qua Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Sông Salween chảy từ Trung Quốc đến Myanmar và Thái Lan. Trong khi sông Yarlung Tsangpo (thượng nguồn của sông Brahmaputra) chảy qua Trung Quốc, Ấn Độ và Bangladesh.

Nhóm nghiên cứu cho biết từ những năm 1050 đến những năm 1190, tốc độ dòng chảy tăng mạnh song song với sự tăng trưởng kinh tế - xã hội và văn hóa nhanh chóng trong khu vực. Điều này bao gồm cả sự trỗi dậy của triều đại Bagan. Đây là triều đại đầu tiên trong lịch sử Myanmar đã xây dựng nền tảng văn hóa và liên quan đến quá trình thống nhất đất nước từ những năm 1050 đến 1070.

Nó cũng trùng hợp với sự trỗi dậy của đế chế Khmer ở Campuchia ngày nay và việc xây dựng quần thể đền Angkor Wat từ những năm 1110 đến những năm 1150, cũng như cuộc chinh phục vương quốc Đông Dương cổ Champa vào giữa thế kỷ 12.

Tuy nhiên theo nghiên cứu, dòng chảy giảm dần từ đầu thế kỷ 13 đến cuối thế kỷ 15 chứng kiến “sự can thiệp của các lực lượng bên ngoài và một số thách thức lớn với hệ thống kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa của Đông Nam Á”.

Ví dụ, giữa năm 1280 và 1340, nguồn cung cấp nước thấp trùng hợp với một cuộc khủng hoảng lớn trong triều đại Bagan, gồm cả cuộc xâm lược của người Mông Cổ năm 1287.

Các tác giả cho biết: “Cuộc khủng hoảng này được đặc trưng bởi sự xáo trộn về kinh tế, bất ổn chính trị và sự chia rẽ của Myanmar”.

rui-ro-ve-nuoc-o-dong-nam-a-dang-so-nhat-nhat-trong-1-000-nam.jpg
Theo nghiên cứu về dòng chảy lịch sử của sông, khi biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến cao nguyên Tây Tạng thì có thể gây ra “những rủi ro chưa từng có” với Đông Nam Á - Ảnh: Tân Hoa Xã

Nghiên cứu cho thấy thời kỳ lưu lượng kiệt của dòng chảy (lưu lượng nước giảm xuống) kéo dài nhất trong 1.000 năm qua, từ năm 1360 đến năm 1500, cũng chứng kiến đế chế Khmer sụp đổ và sự bỏ hoang dần dần của Angkor Wat.

Các tác giả viết: “Dù các quốc gia thịnh vượng có thể kiên cường hơn và có khả năng thích ứng tốt hơn với những hiện tượng khí hậu cực đoan, nhưng ảnh hưởng của các yếu tố môi trường bất lợi lâu dài có thể ảnh hưởng đến khả năng phục hồi này và các hiện tượng cực đoan về thủy văn có thể gây ra những thay đổi xã hội dần dần”.

Chen Feng lưu ý rằng dòng chảy mà nhóm nghiên cứu bị ảnh hưởng bởi cả mưa và sông băng.

“Các sông băng tan chảy là nguồn cung cấp nước quan trọng cho những con sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng. Khi hiện tượng nóng lên toàn cầu ngày càng gia tăng, sản lượng nước có thể tăng lên, thậm chí đạt mức cao như thời trung cổ”, ông nói.

Trong khi Chen Feng cho biết điều đó có thể dẫn đến nhiều thiên tai hơn liên quan đến lũ lụt do tuyết tan, nghiên cứu cũng cảnh báo rằng lượng nước tăng “có thể sẽ không bù đắp được cho sự gia tăng nhanh chóng về dân số ở Đông Nam Á, điều này có nghĩa là vấn đề khan hiếm nước có khả năng sẽ tiếp tục tồn tại”.

Chen Feng nói: “Khi trái đất ấm lên, cần có sự hợp tác quốc tế để cùng nhau quản lý việc gia tăng và phân bổ tài nguyên nước”.

Sơn Vân