Vì sao giá ô tô Việt Nam cao hơn các nước?
Thị trường và chính sách - Ngày đăng : 06:04, 03/12/2019
Tại cuộc họp báo Chính phủ chiều 2.12, trả lời báo chí về lắp ráp và sản xuất ô tô trong nước, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải khẳng định, đối với bất cứ quốc gia nào, nhất là những nước có đến 100 triệu dân như Việt Nam, ngành công nghiệp ô tô hết sức quan trọng.
“Chúng ta phải nhìn nhận một thực tế đúng là giá thành ô tô ở Việt Nam đang cao so hơn với các nước khác, kể cả những nước đang phát triển cũng như những nước xung quanh. Để tạo nên giá thành một chiếc ô tô, có 2 phần hết sức quan trọng. Một là sản xuất lắp ráp trong nước để được giảm giá thành. Phần thứ hai là thuế phí, hiện chiếm một phần tương đối lớn trong giá thành”, ông nói.
Theo ông Hải, hiện nguyên nhân để giá thành cao so với giá sản xuất ở các quốc gia, lãnh thổ khác thứ nhất là dung lượng thị trường của Việt Nam còn nhỏ. Ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam chưa đủ các điều kiện thị trường và những yếu tố khác để phát triển giống như các quốc gia khác, trong khi cũng phải chịu sự cạnh tranh rất khốc liệt của các đối thủ Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ và cả các nước trong khối ASEAN.
Thứ hai là Việt Nam đi sau, phát triển sau so với các nước trên thế giới, kể cả các nước trong khu vực chứ đừng nói là các nước tiên tiến. Trong khi Việt Nam đã hội nhập rất sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đã ký kết rất nhiều hiệp định thương mại tự do, nên phải thực hiện và chính vì vậy, dư địa để can thiệp bằng chính sách vào phát triển công nghiệp, trong đó có công nghiệp ô tô, không lớn vì phải tuân thủ các cam kết quốc tế, có nghĩa là không phải chúng ta muốn làm gì thì làm.
Thứ ba là thực tế hiện nay Việt Nam chưa có nhiều doanh nghiệp có tầm cỡ khu vực cũng như thế giới trong lĩnh vực công nghiệp ô tô. “Như vậy chúng ta không có những đầu tàu nên rất khó để kéo những toa tàu, chính là nền sản xuất công nghiệp hỗ trợ. Đấy là một thực tiễn”, ông Hải nói.
Một điểm nữa, thứ trưởng Bộ Công Thương cho rằng, hiện tập quán kinh doanh của các nước là thường sử dụng các doanh nghiệp đã sản xuất của chính quốc gia họ về công nghiệp hỗ trợ. Vvì vậy việc gia nhập mà Việt Nam hay dùng là kết nối giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa còn hạn chế và điều đó cũng cản trở, gây khó cho việc sản xuất ở trong nước.
Thêm nữa, Việt Nam đang rất thiếu những vật liệu cơ bản trong ngành công nghiệp sản xuất ô tô, kể cả ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như những việc khác. Các nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ô tô như thép chế tạo, nhựa, cao su… chúng ta đều phải nhập khẩu. Mà đã nhập khẩu thì giá thành cao, làm cho sản phẩm ô tô của chúng ta cao. Còn rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sản xuất, lắp ráp các sản phẩm nội địa giá thành vẫn còn cao.
Theo đó, giải pháp là bảo vệ, tạo dựng và phát triển thị trường cho ngành ô tô trong nước thông qua hàng rào kỹ thuật phù hợp với cam kết quốc tế. Có chính sách kích cầu tiêu dùng ô tô thông qua việc quy hoạch hợp lý hệ thống hạ tầng giao thông, khuyến khích tín dụng để tiêu dùng sản phẩm ô tô. Rồi phát triển hạ tầng GTVT vì chúng ta muốn có nhiều ô tô mà lại không có đường thì đi vào đâu. Việc này cũng hết sức quan trọng.
Thứ hai, theo ông Hải, sửa đổi và bổ sung một số quy định liên quan đến thuế, phí nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh, thu hẹp khoảng cách về chi phí sản xuất giữa ô tô trong nước và ô tô nhập khẩu.
Điểm thứ ba là khuyến khích doanh nghiệp lớn đầu tư phát triển sản xuất ô tô, trong đó chú trọng đầu tư vào công tác nghiên cứu phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, tham gia sâu vào giá trị toàn cầu của ngành này.
Và một điểm lớn nữa theo ông Hải là có các cơ chế thu hút chính sách đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia vào các dự án có quy mô lớn tại Việt Nam, nhưng tập trung vào các thương hiệu và dòng xe chưa có tại khu vực ASEAN để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tham gia sâu vào chuỗi sản xuất ô tô đa quốc gia và hướng tới thị trường xuất khẩu trong khu vực.
Ví dụ những nước có cơ sở sản xuất trong ASEAN rồi thì họ chỉ quan tâm đến thị trường Việt Nam thôi nhưng mà vốn nhỏ không thể phát triển lên được. Nhưng như vừa qua, Mazda, Hyundai lập xưởng sản xuất ngay tại Việt Nam với sự tham gia của DN Việt Nam thì họ sẽ không chỉ nhìn vào thị trường nội địa của Việt Nam mà còn hướng tới xuất khẩu, điều đó hết sức quan trọng.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai nêu, từ ngày 1.1.2018, thực hiện các hiệp định về thuế quan, cụ thể là hiệp định ATIGA trong các nước ASEAN thì thuế nhập khẩu ô tô về 0% và như vậy việc cạnh tranh giữa ô tô sản xuất trong nước với ô tô nhập khẩu là hết sức gay gắt. Đối với các thị trường khác thì thuế nhập khẩu ô tô, tức là với MFM, mà không có FTA tùy theo từng chủng loại là từ 10-60%, cao nhất là 70%.
Vì vậy Bộ Tài chính, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 125 năm 2017, có hiệu lực từ 1.1.2018. Riêng điều khoản về chính sách với ô tô và chương trình về ưu đãi thuế 5 năm với ô tô thì có hiệu lực từ tháng 1.2017. Chương trình này đã thực hiện trong gần hai năm vừa qua, đạt kết quả rất tốt, rất thành công, được các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô đánh giá cao.
Đại diện Bộ Tài chính cũng cho biết đang sửa đổi và dự kiến trong tháng 12 này sẽ trình Chính phủ Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định 125. Riêng chính sách đối với ô tô sẽ sửa theo hướng tạo thuận lợi hơn nữa.
Cụ thể, sửa đổi các điều kiện để DN đáp ứng tham gia chương trình này một cách thuận lợi hơn nữa trên cơ sở tiếp thu các ý kiến tổng kết đánh giá của các DN và các bộ, ngành. Bổ sung vào Nghị định 125 quy định thuế suất 0% đối với nguyên liệu, vật tư để sản xuất linh kiện và phụ tùng ô tô.
Lam Thanh