TS Nguyễn Minh Thảo: Cải cách môi trường kinh doanh đang có xu hướng chững lại

Thị trường và chính sách - Ngày đăng : 16:30, 27/04/2024

Điều kiện kinh doanh vẫn tạo nhiều rào cản, tăng chi phí và ẩn chứa rủi ro với doanh nghiệp (DN). Tuy nhiên, từ năm 2019 đến nay, cải cách môi trường kinh doanh có xu hướng chững lại.
Thị trường và chính sách

TS Nguyễn Minh Thảo: Cải cách môi trường kinh doanh đang có xu hướng chững lại

Lam Thanh 27/04/2024 16:30

Điều kiện kinh doanh vẫn tạo nhiều rào cản, tăng chi phí và ẩn chứa rủi ro với doanh nghiệp (DN). Tuy nhiên, từ năm 2019 đến nay, cải cách môi trường kinh doanh có xu hướng chững lại.

Điều kiện kinh doanh vẫn là rào cản nặng nề với DN

Cải cách các quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh nhằm thúc đẩy cạnh tranh, khuyến khích phát triển DN là trọng tâm của Chính phủ trong những năm gần đây. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng số lượng điều kiện kinh doanh vẫn còn nhiều.

TS Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng những điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, không có ý nghĩa và hiệu quả về quản lý nhà nước đã gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.

Ngoài ra, tình trạng này còn làm tăng chi phí và rủi ro, làm giảm niềm tin của nhà đầu tư, DN; giảm tính hấp dẫn của môi trường kinh doanh; tạo dư địa tham nhũng…, tác động trực tiếp tới tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.

san-xuat.png
Doanh nghiệp thêm nhiều khó khăn khi điều kiện kinh doanh "bủa vây"

Trong lần rà soát của CIEM năm 2023, bà Thảo ghi nhận một số kết quả, trong đó đáng chú ý là việc tìm hiểu điều kiện kinh doanh thuận lợi hơn, dễ theo dõi hơn bởi điều kiện kinh doanh của nhiều ngành nghề được tập hợp trong văn bản hợp nhất hoặc nghị định quy định về điều kiện kinh doanh... Trong đó, điều kiện kinh doanh thuộc một số lĩnh vực được thiết kế có hệ thống, rõ ràng, dễ theo dõi.

Hơn nữa, các điều kiện kinh doanh quy định chung chung, thiếu rõ ràng hoặc can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của DN cũng đã giảm đáng kể. Nhờ vậy, so với giai đoạn trước 2018, DN thuận lợi hơn trong việc tuân thủ các điều kiện kinh doanh và chi phí tuân thủ theo đó cũng được cắt giảm.

Tuy vậy, qua rà soát ngành nghề kinh doanh có điều kiện thuộc 15 lĩnh vực quản lý nhà nước, đơn vị này nhận diện nhiều vấn đề còn tồn tại.

Cụ thể, số lượng ngành nghề kinh doanh có điều kiện trên thực tế lớn hơn số lượng (229 ngành) theo danh mục thuộc phụ lục 4 Luật Đầu tư. Nhiều ngành nghề “cắt giảm” dưới hình thức gộp tên, hoặc sử dụng tên ngành nghề có phạm vi điều chỉnh rộng để rút gọn về hình thức số lượng ngành nghề.

Ngoài ra, số lượng ngành nghề kinh doanh có điều kiện thuộc một số lĩnh vực quản lý nhà nước cũng tăng lên qua mỗi đợt sửa đổi danh mục; không nhất quán trong xác định ngành nghề kinh doanh có điều kiện; một số ngành nghề thiếu thuyết phục về sự cần thiết phải quy định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

“Có thể thấy, việc thu gọn ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện chưa thực chất, chưa đúng tinh thần cải cách tạo thuận lợi, cắt giảm chi phí tuân thủ cho DN”, bà Thảo nêu.

anh-man-hinh-2024-04-27-luc-15.31.02.png
TS Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)

Cải cách môi trường kinh doanh đang chững lại

Theo báo cáo của Văn phòng Chính phủ, tổng số quy định kinh doanh được cắt giảm, đơn giản hóa từ năm 2021 đến 2023 là 2.770 quy định tại 224 văn bản quy phạm pháp luật trên tổng số 15.801 quy định kinh doanh được cập nhật, công khai.

Tuy nhiên, bà Thảo cho rằng khi nghiên cứu, rà soát nhận thấy rằng trong số này, số lượng các điều kiện kinh doanh cắt bỏ rất ít hoặc chỉ cắt bỏ những điều kiện kinh doanh ít ý nghĩa, chưa thực sự tạo thuận lợi cho DN.

Ngoài ra, số lượng quy định được coi là “cắt giảm, đơn giản hóa” chủ yếu tổng hợp theo báo cáo hành chính, chưa có đánh giá về chất lượng cải cách. Do đó, chi phí tuân thủ của DN trên thực tế chưa thực sự được cắt giảm.

Theo bà Thảo, từ năm 2019, nhất là từ năm 2020 đến nay, cải cách môi trường kinh doanh nói chung và ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh nói riêng có xu hướng chững lại.

“Điều kiện kinh doanh vẫn tạo nhiều rào cản, hạn chế về quyền tự do kinh doanh, ẩn chứa rủi ro, và tạo gánh nặng chi phí tuân thủ đối với DN”, bà Thảo nhấn mạnh.

Do đó, bà Thảo cho rằng cần nhiều nỗ lực cải cách và tâm huyết của các cơ quan quản lý nhà nước để tháo gỡ điểm nghẽn này, đồng thời thay đổi tư duy cải cách theo hướng tạo lập thể chế minh bạch, thuận lợi và thúc đẩy tuân thủ của DN.

san-xuat-2.jpg
Xu hướng cải cách môi trường kinh doanh đang chững lại

Bà Thảo kiến nghị, đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện mà yêu cầu quản lý thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn, mục tiêu quản lý không rõ ràng, hoặc có biện pháp quản lý khác hiệu quả hơn thì yêu cầu các bộ, ngành đề xuất sửa đổi danh mục thuộc Phụ lục 4 của Luật Đầu tư theo hướng bãi bỏ những ngành nghề này tại danh mục.

Trường hợp cần thiết đề xuất bổ sung ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì phải có báo cáo đánh giá tác động toàn diện.

Đối với các điều kiện kinh doanh, nếu không hợp pháp, không cần thiết, không khả thi, không dựa trên cơ sở khoa học rõ ràng, hoặc có thể thay bằng biện pháp quản lý khác hiệu quả hơn thì kiến nghị bãi bỏ.

“Đối với các điều kiện kinh doanh không phù hợp với thực tiễn hoặc can thiệp sâu vào hoạt động đầu tư, kinh doanh của DN thì kiến nghị bãi bỏ hoặc sửa đổi theo hướng đơn giản hoá, giảm chi phí tuân thủ và đảm bảo không can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp”, bà Thảo nói.

Bà Thảo cũng cho rằng các điều kiện kinh doanh được quy định chung chung, không rõ ràng, thiếu cụ thể, thiếu tính minh định thì kiến nghị sửa đổi để đảm bảo điều kiện kinh doanh phải cụ thể, minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu và khả thi. Trong trường hợp không xác định được các điều kiện, tiêu chí cụ thể, minh bạch thì kiến nghị bãi bỏ điều kiện kinh doanh này.

TS Nguyễn Minh Thảo cũng kiến nghị các bộ, ngành rà soát, bãi bỏ các chứng chỉ không cần thiết; thu gọn các loại chứng chỉ có trùng lặp về nội dung để tránh lãng phí. Thực hiện phân cấp việc đào tạo, sát hạch và cấp chứng chỉ; đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động này.

Lam Thanh