Cuộc cách mạng kết tinh từ lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân
Góc bình luận - Ngày đăng : 09:04, 19/08/2024
Cuộc cách mạng kết tinh từ lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân
Chúng ta đang rất cần một tinh thần của Cách mạng tháng Tám cho cuộc sống hôm nay.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sau đó là sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chấm dứt gần 80 năm dân tộc Việt Nam bị đô hộ bởi thực dân, đế quốc. Cách mạng tháng Tám là kết tinh từ tinh thần yêu nước ngàn đời của dân tộc Việt Nam.
Bây giờ, nhiều người vẫn nói, viết rằng khi người Pháp đô hộ Việt Nam đã chia đất nước Việt Nam thành 3 kỳ để trị, đó là cách hiểu chưa hẳn chính xác. Thực ra tên gọi các kỳ đã được đặt ra dưới thời vua Minh Mạng, nhưng khi cai trị Việt Nam, người Pháp căn cứ từ sự phân chia và tên gọi trước đó để đặt cho 3 miền đất nước 3 cái tên khác nhau với chế độ cai trị khác nhau. Bắc Kỳ được gọi là Tonkin, đọc trại của từ Đông Kinh có từ thời Lê sơ. Nam Kỳ được gọi là Cochinchine với nghĩa là Giao Chỉ ở gần Trung Quốc (tất nhiên còn nhiều cách giải thích khác nhau về tên gọi này). Trung Kỳ được gọi là An Nam. An Nam là tên gợi nhớ về thời kỳ nước Việt bị đô hộ. Thời nhà Đường đô hộ Việt Nam, họ đã đặt ra một cơ quan để cai trị Việt Nam đó là An Nam đô hộ phủ. Ngoài ra, An Nam nếu kết hợp với từ tố “ites” nghĩa là người Việt Nam. Trong tiếng Pháp, từ Annamites có nghĩa là loài sâu bọ, loài ăn bám, đây là cách gọi miệt thị người Việt Nam.
Tương truyền, khi vua Thành Thái, một nhà vua yêu nước có tinh thần chống Pháp bị buộc phải thoái vị, khi chọn vua, viên quan ở tòa Khâm sứ ở Huế đã nhéo tai hoàng tử Vĩnh San và nói giữa triều đình “thằng này tai to làm vua được”. Sau cái bẹo tai ấy, một cậu bé 7 tuổi đã được đưa lên ngai vàng, đó chính là vua Duy Tân. Cuối năm 1944, đầu năm 1945, với chính sách nhổ lúa trồng đay của phát xít Nhật, hơn 2 triệu người Việt Nam đã chết đói. Có lẽ những khổ đau, tủi nhục ấy đã chất chứa trong lòng bao thế hệ người Việt suốt nhiều năm và chỉ chờ dịp được bùng lên mạnh mẽ.
Từ khi người Pháp đô hộ Việt Nam, rất nhiều phong trào yêu nước nổ ra nhưng chỉ thành công khi được sự lãnh đạo của một chính đảng có đường lối đúng đắn: Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi khi ấy). Trong cuộc cách mạng vĩ đại có mặt hầu như tất cả các giới đồng bào từ những quan lại cao cấp của triều đình đến những nhân sĩ, trí thức, những đại điền chủ giàu có, các nhà tư sản dân tộc đến các tầng lớp nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc.
Tình dân tộc, nghĩa đồng bào đã thức tỉnh nhiều quan lại, trí thức lớn để họ quyết định định gia nhập đội ngũ của nhân dân. Khâm sai đại thần Bắc Bộ của triều đình Bảo Đại là cụ Phan Kế Toại, trước khi rời nhiệm sở đã căn dặn những người lính dưới quyền không được nổ súng nếu Việt Minh vào tiếp quản phủ Khâm sai. Vậy nên, cuộc giành chính quyền ở Hà Nội, cụ thể tại phủ này đã diễn ra hầu như trong trật tự. Trước tình hình sục sôi của cách mạng, trước sự lưỡng lự của nhà vua, 4 trí thức nổi tiếng trong Hội đồng Tư vấn của Chính phủ Trần Trọng Kim là Nguyễn Văn Huyên, Ngụy Như Kon Tum, Hồ Hữu Tường và Nguyễn Xiển đã thống nhất đánh một bức điện vào Huế yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị, giao cho Việt Minh thành lập chính phủ để tránh nội chiến nồi da xáo thịt. Bức điện ấy, như Giáo sư Nguyễn Xiển viết: “Chúng tôi tự động gửi bức điện trên coi như phản ánh nguyện vọng của đại bộ phận trí thức Trung, Nam, Bắc (Nguyễn Văn Huyên là người Bắc, Hồ Hữu Tường quê trong Nam, Ngụy Như Kon Tum và tôi ở Trung Kỳ). Chúng tôi được ghi nhận là “Nhóm bốn người đánh điện” (les quatre télégraphistes) nhưng hiểu rằng Cách mạng tháng Tám là sự nghiệp của toàn dân vùng lên giành chính quyền từ tay Nhật và đánh đổ triều đình phong kiến nhà Nguyễn, cử chỉ của chúng tôi chỉ là góp thêm một tác động nhỏ về chính trị tinh thần vào một cao trào đã lớn mạnh ở một tình thế đã chín muồi”. Bức điện rất ngắn gọn nhưng chứa đựng đầy đủ thông điệp: “Một chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã thành lập, Chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu đức vua thoái vị ngay để củng cố và thống nhất nền độc lập nước nhà”.
Ở Sài Gòn, hàng trăm nghìn thanh niên thuộc lực lượng Thanh niên tiền phong của Chính phủ Trần Trọng Kim đã nghe theo vị thủ lĩnh tối cao của phong trào - bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, ngả về phía nhân dân, phía cách mạng. Nhờ sự ủng hộ to lớn ấy của một lực lượng hùng hậu nên quân đội Nhật ở Sài Gòn khi ấy dù vẫn còn rất đông đã không dám chống cự và hoàn toàn thúc thủ.
Rất nhiều gia đình giàu có, các đại điền chủ, các nhà tư sản yêu nước đã cùng nhau đóng góp cho cách mạng vì nền độc lập tự do của Tổ quốc. Gia đình nhà tư sản Trịnh Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ đã đóng góp cho cách mạng hơn 5 nghìn lượng vàng (là số tài sản cực lớn). Nhà tư sản Đỗ Đình Thiện ủng hộ cách mạng những ngày trứng nước 10 vạn đồng Đông Dương, 100 lạng vàng trong “Tuần lễ vàng” (trong khi cả nước mới quyên góp được 300 lạng vàng). Sau này, vợ chồng cụ Thiện đã tự bỏ tiền ra mua Nhà máy in Taupin của người Pháp để hiến cho cách mạng và Bộ Tài chính làm cơ sở in tiền của nhà nước ta trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến. Trả lời về sự hy sinh cống hiến hết mình cho cách mạng những ngày trứng nước ấy, cụ Đỗ Đình Thiện chỉ khái quát một cách thật đơn giản: cống hiến bởi đơn giản là đất nước cần.
Cũng chính tình dân tộc, nghĩa đồng bào đã giúp đức vua Bảo Đại nhanh chóng chấp nhận thoái vị. Nhà vua, dù quân Nhật đề nghị nhưng đã thức thời không cho nổ súng đàn áp lại nhân dân. Ngài đã nhanh chóng thoái vị để trao quyền lại cho Việt Minh với tuyên bố nổi tiếng: "Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm vua một nước nô lệ". Chính phủ Trần Trọng Kim cũng đã nhanh chóng tự nguyện rút lui để nhường quyền lãnh đạo cho lực lượng mà họ cho rằng sẽ tốt hơn - Mặt trận Việt Minh. Sau này, nhiều thành viên chính phủ, chính quyền Trần Trọng Kim đã tham gia vào bộ máy chính quyền do Mặt trận Việt Minh lãnh đạo.
Thành công của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 tất nhiên là thành quả của gần 80 năm đấu tranh xương máu của các thế hệ người Việt Nam, nhất là 15 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất của những người cộng sản. Cả 4 tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam vì yêu nước, chống thực dân, đế quốc mà đều bị bắt, tù đày và hy sinh. Thế nhưng, chắc chắn một điều, cuộc cách mạng này sẽ không thể thành công nhanh chóng nếu không có sức mạnh đại đoàn kết vĩ đại từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào của đại bộ phận nhân dân. Đảng Cộng sản Đông Dương khi ấy chỉ có hơn 5 nghìn đảng viên, trong đó rất nhiều đảng viên vẫn còn ở trong các nhà tù của thực dân, đế quốc. Kể từ khi lệnh tổng khởi nghĩa được phát ra đêm 13.8 cho đến khi khởi nghĩa thành công ở Sài Gòn ngày 25.8, thì thời gian chỉ là 12 ngày. Nếu không có sự ủng hộ của nhân dân, không quy tụ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân làm sao có thể thành công nhanh chóng trong một thời gian ngắn như vậy. Đó là sự dấn thân và hy sinh không cần tính toán đong đếm của các thế hệ người Việt Nam khi ấy chứ hoàn toàn không phải là một cuộc cách mạng “ăn may” như các luận điệu xuyên tạc. Đánh giá về lịch sử, về cha ông không thể lấy hệ quy chiếu của hôm nay. Thực tiễn cuộc Cách mạng tháng Tám đã nói lên tất cả.
Khi cuộc Cách mạng tháng Tám nổ ra là lúc mà tiềm lực của đất nước và nhân dân hầu như kiệt quệ. Kiệt quệ bởi trước đó không lâu, gần 2 triệu đồng bào vừa chết đói tức tưởi trong thảm trạng nạn đói kinh hoàng do những kẻ xâm lược gây ra. Ấy vậy mà, lệnh tổng khởi nghĩa do Việt Minh ban ra ngay lập tức đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các giới đồng bào cả nước. Rõ ràng, khi lợi ích quốc gia, dân tộc được đề cao, sẽ được nhân dân đồng tình ủng hộ. Rõ ràng, một sự nghiệp thật sự vì dân vì nước, nhân dân sẽ ủng hộ, tin tưởng và đi theo. Lực lượng lãnh đạo có trái tim, khối óc hòa cùng nhịp đập và suy nghĩ của dân chắc chắn sẽ được nhân dân ủng hộ. Một đường lối bắt trúng nhu cầu, khơi trúng mạch nguồn tốt đẹp sẽ khơi dậy tình dân tộc, nghĩa đồng bào, tinh thần đoàn kết của các tầng lớp nhân dân.
Chúng ta đang rất cần một tinh thần của Cách mạng tháng Tám cho cuộc sống hôm nay.