Mê sảng sau phẫu thuật có thể báo trước nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer
Thông tin Y học - Ngày đăng : 20:40, 25/11/2019
Các nhà khoa học Mỹ từ Trung tâm y tế Beth Israel ở Boston đã tiến hành một nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ di truyền đối với bệnh Alzheimer, có thể gián tiếp ảnh hưởng đến nguy cơ mê sảng sau phẫu thuật ở bệnh nhân. Bằng cách kiểm tra những người lớn tuổi không có triệu chứng sa sút trí tuệ đã trải qua phẫu thuật, các nhà khoa học phát hiện ra rằng những bệnh nhân có một số biến thể di truyền cho thấy các triệu chứng mê sảng hơn nhiều.
Các nhà nghiên cứu đã tập trung vào gien APOE, mã hóa apolipoprotein E, một loại protein tham gia vào chuyển hóa lipid trong máu và chuyển hóa cholesterol trong não. Những bệnh nhân bị mê sảng rõ rệt nhất là có phiên bản gien đột biến, được các nhà khoa học chỉ định là APOE-4 - yếu tố nguy cơ di truyền mạnh nhất đã biết khiến phát triển bệnh Alzheimer ở giai đoạn muộn.
Các tác giả của công trình nghiên cứu cho rằng biến thể gien APOE có thể gián tiếp ảnh hưởng đến biểu hiện của mê sảng, thay đổi phản ứng của cơ thể đối với tình trạng viêm. Sự gia tăng nồng độ protein phản ứng C (C-reactive protein) trong máu của những bệnh nhân này, chỉ số lâm sàng chính của quá trình viêm cùng với tốc độ máu lắng, chứng tỏ điều đó.
Các nhà nghiên cứu đã phân tích tần suất, mức độ nghiêm trọng và thời gian mê sảng sau phẫu thuật ở 560 bệnh nhân được phẫu thuật từ 70 tuổi trở lên. Phân tích các mẫu máu được lấy trước khi phẫu thuật, ngay sau đó và 2 ngày sau và một tháng sau phẫu thuật cho thấy người mang biến thể APOE-4 có protein phản ứng C (C-reactive protein) cao đều có nguy cơ bị mê sảng sau phẫu thuật. Trong số những người mang các biến thể gien APOE khác, không có mối liên hệ nào như vậy.
Kết quả nghiên cứu cho thấy APOE-4 có thể là một chỉ dấu cho thấy não dễ bị tổn thương - Sarininnapha M.Vasunilashorn, tác giả chính của công trình nghiên cứu khẳng định. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp các bác sĩ ngăn ngừa mê sảng sau phẫu thuật và dự đoán các tác động nhận thức tiêu cực lâu dài ở những bệnh nhân có biến thể di truyền này.
Vũ Trung Hương