Chuyển UB kiểm tra Trung ương nhiều vi phạm tại dự án nhiệt điện Thái Bình 2
Tài chính và đầu tư - Ngày đăng : 18:49, 06/08/2020
Phê duyệt quyết định đầu tư sai quy định
Theo kết luận thanh tra về thông qua chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư Dự án NMNĐ Thái Bình 2, theo quy định tại Khoản 1 Điều 2, Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 66/2006/QH11, ngày 29.6.2009 của Quốc hội, dự án, công trình có quy mô vốn đầu tư từ 20.000 tỉ đồng trở lên, trong đó sử dụng từ 30% vốn nhà nước trở lên là dự án, công trình quan trọng quốc gia; Quốc hội xem xét và thông qua nghị quyết về chủ trương đầu tư đối với dự án, công trình quan trọng quốc gia. Dự án NMNĐ Thái Binh 2 là dự án, công trình quan trọng quốc gia, do Quốc hội xem xét, thông qua chủ trương đầu tư.
Việc PVN và Bộ Công Thương đề xuất Thủ tướng Chính phủ quy đổi tổng mức đầu tư (TMĐT) dự án về mặt bằng giá năm 2006 là 18.495,5 tỉ đồng để không trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao Hội đồng quản trị PVN quyết định đầu tư dự án là không đúng Nghị quyết 66/2006/QH11 ngày 29.6.2006 của Quốc hội.
Trong khi dự án chưa được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, Hội đồng quản trị PVN căn cứ Công văn 800/TTg-KTN do Phó thủ tướng Chính phủ ký và hồ sơ thẩm định dự án của PVN để phê duyệt quyết định đầu tư dự án (sau thời điểm Quốc hội ban hành Nghị quyết số 49/2010/QH12 ngày 19.6.2010 và trước thời điểm Nghị quyết này có hiệu lực) là không đúng quy định tại Khoản 2, Điều 10 Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12.2.2009 của Chính phủ và Khoản 2, Điều 39 Luật Xây dựng năm 2003.
Về thầm định, quyết định phê duyệt điều chỉnh dự án, trong quá trình đầu tư dự án, PVN có Quyết định 4626/QĐ-DKVN ngày 26.5.2011 phê duyệt điều chỉnh dự án lần 1 với TMĐT từ 31.505,4 tỉ đồng thành 34.295,1 tỉ đồng và Quyết định 6175/QĐ-DKVN ngày 4.10.2016 phê duyệt điều chỉnh TMĐT dự án lần 2 là 41.799,1 tỉ đồng.
Quá trình thực hiện trình tự thủ tục điều chỉnh Dự án lần 1, PVN chưa báo cáo Thủ tướng nhưng PVN đã thẩm định và quyết định điều chỉnh dự án với TMĐT 34.295,1 tỉ đồng là thực hiện không đúng quy định.
Đối với việc điều chỉnh TMĐT lần 2 lên 41.799,1 tỉ đồng, do việc điều chỉnh hợp đồng EPC không đúng Điểm a Khoản 3 Điều 15 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP của Chính phủ, thực hiện không đúng Quyết định 2414/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nên việc điều chỉnh TMĐT này là không đúng quy định.
Vi phạm trong chỉ định thầu, tổng thầu không đủ năng lực
Liên quan đến việc chỉ định thầu đối với gói thầu EPC Dự án NMNĐ Thái Bình 2, cơ quan thanh tra cho biết mặc dù chưa xác định các điều kiện để được chỉ định thầu đối với Gói thầu EPC Dự án theo quy định của pháp luật nhưng PVN đã đề xuất, được Bộ Công Thương đồng ý, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ủy quyền cho Hội đồng quản trị PVN quyết định việc chỉ định thầu Dự án NMNĐ Thái Bình 2.
Trên cơ sở báo cáo, đề nghị của PVN, Bộ Công Thương, ngày 11.6.2010 Phó thủ tướng Chính phủ có Văn bản số 978/TTg-KTN đồng ý về nguyên tắc việc chỉ định thầu 2 dự án, trong đó có NMNĐ Thái Bình 2, yêu cầu Hội đồng quản trị PVN quỵết định việc chỉ định thầu dự án theo quy định của pháp luật, đảm bảo tiến độ và chất lượng dự án.
PVN chưa xác định các điều kiện để được chỉ đinh thầu đối với Gói thầu EPC Dự án, chưa thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định nhưng ngày 18.6.2010 Hội đồng quản trị PVN đã căn cứ vào Văn bản số 978/TTg-KTN ban hành Nghị quyết số 5392/NQ-HĐQT-DKVN đồng ý về chủ trương giao PVC thực hiện gói thầu EPC Dự án theo hình thức chỉ định thầu.
Ngày 21.2.2011, Hội đồng thành viên PVN ban hành Quyết định số 1409/QĐ-DKVN phê duyệt Kế hoạch đấu thầu dự án, trong đó gói thầu EPC có thời gian thực hiện là 45 tháng và ngày 6.10.2011, Tổng giám đốc PVN ban hành Quyết định số 9108/QĐ-DKVN phê duyệt chỉ định PVC là nhà Tổng thầu EPC Dự án với thời gian thực hiện gói thâu 45 tháng là không đúng quy định của pháp luật về đấu thầu.
Đến thời điểm được chỉ định thầu, PVC chỉ thực hiện xây dựng công trình dân dụng, hạ tầng, tuyến ống dẫn khí... và thi công một số hạng mục của một số nhà máy nhiệt điện..., chưa làm Tổng thầu EPC các dự án lớn tương tự như Dự án NMNĐ Thái Bình 2; hồ sơ năng lực của PVC chưa đáp ứng hồ sơ yêu cầu để thực hiện gói thầu EPC, nhưng PVN vẫn chỉ định PVC làm tổng thầu EPC.
Sau khi ký kết hợp đồng Tổng thầu EPC, PVC đã thực hiện không đúng cam kết là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến Dự án chậm tiến độ, phát sinh tăng chi phí, trong đó có chi phí trả lãi tiền vay từ năm 2016 đến 2019 là 81,867 triệu USD. Việc chỉ định PVC làm Tổng thầu EPC Dự án như trên là không đúng quy định tại Điều 20 Luật Đấu thầu số và Điểm e Khoản 3 Điều 40 Nghị định 85/2009/NĐ-CP ngày 15.10.2009 của Chính phủ.
Đưa vào danh mục dự án nguồn điện cấp bách trái quy định
TTCP cũng chỉ ra vi phạm tại việc bổ sung Dự án NMNĐ Thái Bình 2 vào danh mục các dự án nguồn điện cấp bách để được thực hiện theo cơ chế, chính sách đặc thù quy định tại Quyết định số 2414/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Cụ thể, tuy chưa làm rõ việc đáp ứng tiêu chí của Dự án NMNĐ Thái Bình 2 để bổ sung vào danh mục các dự án cấp bách được quy định tại Điều 4 Quyết định số 2414/QĐ-TTg ngày 11.12.2013 của Thủ tướng Chính phủ, nhưng ngày 17.4.2014, PVN, Bộ Công Thương đã có văn bản kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bổ sung Dự án NMNĐ Thái Bình 2 vào danh mục các dự án nguồn và lưới điện cấp bách giai đoạn 2013-2020.
Lý do là những khó khăn trong việc triển khai dự án, dẫn đến nguy cơ không đáp ứng đúng tiến độ phát điện, khó khăn trong đảm bảo an ninh năng lượng điện. Trên cơ sở đề xuất của PVN và Bộ Công Thương, Phó thủ tướng đồng ý bổ sung dự án vào danh mục dự án cấp bách giai đoạn 2013-2020 và được áp dụng cơ chế, chính sách theo Quyết định số 2414/QĐ-TTg ngày 11.12.2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Việc tham mưu, đề xuất đưa Dự án NMNĐ Thái Bình 2 vào danh mục các dự án nguồn điện cấp bách giai đoạn 2013-2020 như trên là thực hiện không đúng Quyết định 2414/QĐ-TTg ngày 11.12.2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Sai phạm trong điều chỉnh giá hợp đồng EPC sau khi điều chỉnh TMĐT lần 2
Hợp đồng EPC số 9256/HĐ-DKVN, ngày 11.10.2011 ký giữa PVN và PVC là hợp đồng trọn gói, giá hợp đồng không thay đổi với khối lượng các công việc thuộc phạm vi hợp đồng đã ký kết, trừ trường hợp khối lượng nằm ngoài phạm vi công việc phải thực hiện theo thiết kế và chỉ được điều chỉnh giá theo quy định.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng EPC, sau khi PVN có Quyết định số 6175 điều chỉnh Tổng mức đầu tư (lần 2) là 41.799, tỉ đồng, PVN và PVC đã ký Phụ lục bổ sung số 26 ngày 6.7.2017, theo đó giá trị hợp đồng tạm tính trước thuế VAT là 948.644 USD và 10.709 tỉ đồng, tăng 27,708 triệu USD và 4.835 tỉ đồng, chủ yếu do điều chỉnh khối lượng, đơn giá thuộc phạm vi hợp đồng EPC đã ký là không đúng quy định.
Dự án NMNĐ Thái Bình 2 chưa đáp ứng các tiêu chí là dự án cấp bách giai đoạn 2013-2020 theo Quyết định 2414/QĐ-TTg ngày 11.12.2013 của Thủ tướng Chính phủ nên hợp đồng không được điều chỉnh theo Quyết định 2414/QĐ-TTg ngày 11.12.2013.
Như vậy, việc PVN điều chỉnh giá gói thầu EPC tăng 5.456 tỉ đồng là không tuân thủ hợp đồng EPC đã ký, không đúng quy định. Khi ký hợp đồng EPC số 9256/HĐ-DKW ngày 11.10.2011 thì Thiết kế kỹ thuật (TKKT) Dự án đã được PVN (Chủ đầu tư) thực hiện trước đó và đưa vào hồ sơ ỵêu cầu khi chỉ định PVC là Tổng thầu EPC dự án. Theo kết quả thẩm tra của Tư vấn PECC2 thì Thiết kế kỹ thuật Dự án thiếu khối lượng, phải bổ sung tăng khối lượng khi thi công dự án với số tiền tăng thêm 4.613 tỉ đồng.
TTCP kiến nghị, dự án NMNĐ Thái Bình 2 có những tồn tại, vi phạm như đã nêu tại Kết luận thanh tra; để khắc phục những tồn tại, vi phạm, tránh lãng phí tiền vốn của Nhà Nước đầu tư vào Dự án này, Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ tiếp tục cho thực hiện kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về việc xử lý vướng mắc liên quan tới Dự án NMNĐ Thái Bình 2, sớm đưa Dự án vào hoạt động.
TTCP kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo các bộ, ngành liên quan theo thẩm quyền tổ chức kiểm điểm, xử lý trách nhiệm theo quy định pháp luật đối với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có những vi phạm, khuyết điểm nêu tại kết luận thanh tra.
Đồng thời, TTCP chuyển kết luận thanh tra đến ủy ban Kiểm ưa Trung ương Đảng để xem xét, xử lý theo thẩm quyền đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến khuyết điểm, vi phạm được nêu tại két luận.
Lam Thanh