'Giải mã' những tồn nghi triều Nguyễn: Nỗi oan thấu trời của Phan Thanh Giản

Câu chuyện văn hóa - Ngày đăng : 11:02, 20/08/2020

Đầu năm 1868, vua Tự Đức sai Hiệp biện đại học sĩ Trần Tiễn Thành và Bang biện huyện Thành Hóa Nguyễn Văn Tường mang theo một dự thảo đã được triều đình soạn sẵn để theo đó mà bàn thảo vào Gia Định thương thuyết hiệp ước mới, nhưng không được toàn quyền quyết định.

Việc điều đình không thành, Hiệp biện họ Trần bị vua giáng xuống làm tả Tham tri bộ Công.

Phan Thanh Giản qua Pháp đòi lại… ba tỉnh miền tây

Trong chuyến đi Gia Định, Tùy biện Nguyễn Văn Tường có đến gặp Lãnh sự Y Pha Nho (Tây Ban Nha - TN) và dò xét tình ý xem họ có thể giúp gì được chăng. Họ Nguyễn cũng có tiếp xúc với luật sư Blancsubé để xét việc kiện hành động vi ước bất hợp pháp, cưỡng chiếm miền Tây của Đề đốc de La Grandière, và việc cho phái đoàn mang thổ vật tặng Quốc trưởng các cường quốc để nới rộng bang giao.

Thực lục không đề cập đến nội dung cuộc thương thuyết này, nhưng căn cứ vào tài liệu từ phía Pháp, sử gia Fourniau cho biết phía Việt phản đối việc Pháp cưỡng chiếm ba tỉnh miền Tây, và đòi Pháp trả lại hai tỉnh Gia Định và Biên Hòa. Về bốn tỉnh còn lại, Pháp có quyền định phần chia thuế má, nhưng sẽ do các quan Việt cai trị. VN phải bán ba tỉnh miền Tây cho Pháp với giá là 1.600.000 đồng bạc, sẽ mở mọi hải cảng dọc bờ biển cho thông thương và Pháp sẽ trợ giúp trong việc chống giặc cướp biển. Mặc dầu không ký được điều ước mới như ý vua muốn, phái đoàn đã thực hiện được nhiều công tác khá ích lợi.

Về tới H.Thành Hóa (Quảng Trị), Bang biện Tường với Hiệp biện Thành trở vào Huế dâng sớ chứng minh rằng việc gởi phái đoàn sang Pháp không những vô ích mà còn có hại, vì lâu rồi, các chủ súy Pháp từ Bonard về sau đều muốn lấy cả 6 tỉnh Nam kỳ, dù ta có tỏ ra thành tâm mấy đi nữa trong việc thi hành Hòa ước Nhâm Tuất, và đề nghị nên nỗ toàn lực trong việc phòng giữ phần đất còn lại, chuẩn bị để lâm thời tấn công lấy lại phần đất đã mất khi thời cơ cho phép. Đồng thời, nên gởi một quốc thư cho quốc trưởng Pháp và một thư của Thương bạc viện cho tướng Pháp ở Gia Định nói rõ những điều kiện trả lại Gia Định, Biên Hòa và miễn tiền bồi thường của hòa ước 1862, xem họ trả lời ra sao. Thư, ngày 30.10.1869, của vua Tự Đức gởi Hoàng đế Napoléon III có đề nghị những điều này (được lưu trữ tại văn khố Bộ Ngoại giao Pháp). Trước đó hai tuần, Tùy biện Tường cũng đề nghị lên vua sách lược chống Pháp “hòa để thủ, thủ để mưu chiến”.

Phạm Phú Thứ khóc Phan Thanh Giản

Những người ngoài cuộc thời đó và các sử gia quan sát viên ngày nay nói chung đều đã không cảm thông được những thủ đoạn quyền biến của vua quan triều Tự Đức. May thay, một người trong cuộc thời đó đã hé lộ cho thấy phần nào mưu lược của vua và triều thần trong vụ này. Đó là đại thần Phạm Phú Thứ, người đã từng hợp tác với sứ thần trong sự hình thành hòa ước 5.6.1862, nhất là trong giai đoạn phê chuẩn và trao đổi hiệp ước, đã cùng đi Pháp với phái đoàn Phan Thanh Giản với tư cách là phó sứ, và thường được vua cử làm Khâm sai để điều đình với các đại diện Pháp từ Gia Định ra kinh để đòi vua nhượng thêm ba tỉnh Nam kỳ còn lại.

Lần ký Hiệp ước Nhâm Tuất, Phan tiên sinh đã cứu nước ta khỏi cơn khủng hoảng, hầu cho Nguyễn Tri Phương có thể đem quân ra Bắc dẹp loạn. Ký xong, ông nhận vào làm Tổng đốc Vĩnh Long để bảo đảm việc thi hành hiệp ước cho trôi chảy. Ông còn đi sứ sang Pháp mang thư của vua Tự Đức viết cho Pháp hoàng xin chuộc 3 tỉnh miền Tây đã lỡ nhượng và sau đó ký được một hiệp ước mới, thuận lợi hơn… nhưng cuối cùng vẫn không thành. Tình hình ngoài Bắc tạm yên thì trong Nam, Pháp lại sinh sự muốn chiếm luôn các tỉnh còn lại của Nam kỳ. Rồi cũng chính ông vào Nam để hòa hoãn với Pháp để bảo toàn miền Tây này. Bao nhiêu công tác chính trị và ngoại giao mà sử gia thường gọi là “chủ hòa” đều một vai ông gánh vác, làm cho ông bị biết bao nhiêu là điều tiếng: bán nước, đầu hàng, rước đạo, Việt gian… Trước những hiểu lầm đáng tiếc, Phan tiên sinh đành ngậm đắng nuốt cay, không biện bạch cho mình để khỏi tiết lộ bí mật quốc gia, làm hại uy tín của vua và chính nghĩa của chế độ. Tiên sinh đã lấy cái chết để bảo toàn khí tiết của mình, chứng minh cho lòng thành đối với vua, với nước…

Trong một bài điếu hay bi ca có giá trị lịch sử hết sức lớn lao, được làm vào mùa thu năm 1867 để tưởng nhớ đại thần họ Phan, họ Phạm Thượng thư bộ Hộ sung Đại thần Cơ mật viện mô tả: Sau 5 năm chống đánh với quân Pháp và mất các tỉnh miền Đông, vô số người chết và tài sản bị tiêu hủy, nước nhà hầu như kiệt quệ, cuộc nội loạn ở Bắc kỳ lại bùng nổi lên, sao chổi hiện ra cùng với thiên tai, hạn hán, lụt lội xảy ra liên hồi…, với tình thế và tương quan lực lượng như vậy, ngài làm sao mà lấy lại ba tỉnh đã mất và tránh khỏi phải trả tiền bồi phí: “Năm trước, khi hòa ước được kết thúc, ngài đã chấp nhận vai trò phạm nhân hầu đem lại đôi chút thảnh thơi cho một giai đoạn nguy biến”. Nay ngài đã chết ngay trên lãnh thổ ba tỉnh miền Tây mà ngài đã có trách nhiệm chống giữ. “Sự cắt nhượng lãnh thổ, chung cuộc, cần phải do nhà vua quyết định. Ai ai cũng cho rằng ngài đã làm sai trái... (nhưng) có bao nhiêu người biết được tình trạng thực sự của nước nhà?”.

Lẽ dĩ nhiên, lý do bí mật đã không cho phép đại thần Phạm Phú Thứ trình bày rõ hơn nữa uẩn khúc của bậc đàn anh khả kính họ Phan.

Theo Thanh Niên