Không thống nhất trong việc quản lý, cấp phép xử lý chất thải nguy hại

Theo dòng thời sự - Ngày đăng : 12:22, 05/10/2020

Chính phủ cho biết đã rà soát 443 văn bản (356 văn bản về đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường, biển và hải đảo; 87 văn bản về xây dựng, kinh doanh bất động sản) và phát hiện một số quy định mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, không phù hợp thực tiễn.

Không thống nhất việc xử lý chất thải nguy hại

Cụ thể, quy định không thống nhất về việc quản lý, cấp phép xử lý chất thải nguy hại. Khoản 3 Điều 90 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định, Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định danh mục chất thải nguy hại và cấp phép xử lý chất thải nguy hại. Tuy nhiên theo quy định của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 thì việc quản lý và cấp giấy phép xử lý chất thải phóng xạ đang thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ, chịu sự điều chỉnh của Luật Năng lượng nguyên tử.

Phương án xử lý là sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 theo hướng dẫn chiếu thẩm quyền quản lý, cấp phép xử lý chất thải nguy hại là chất thải phóng xạ thực hiện theo quy định của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 (đã được xử lý tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2014).

Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định một số loại hình dự án phải có Giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành, Giấy phép xử lý chất thải nguy hại, điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, trong đó có các nội dung về xác nhận công trình xử lý nước thải, quy chuẩn xả thải, tần suất quan trắc nước thải (đối với đối tượng có hoạt động xả thải ra ngoài môi trường).

Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định việc cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, Luật Thủy lợi năm 2017 quy định việc cấp giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi với mục tiêu chung là bảo đảm chất lượng nước thải xả ra ngoài môi trường (trong đó có công trình thủy lợi) đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường.

Thực tế triển khai các Luật này trong thời gian qua cho thấy có sự chồng lấn, chưa thống nhất về yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền đối với quy chuẩn kỹ thuật áp dụng, thông số quan trắc, tần suất quan trắc nước thải tại các giấy phép, giấy xác nhận của một cơ sở; một hoạt động xả thải của doanh nghiệp chịu sự quản lý của ít nhất là hai cơ quan cấp giấy phép.

Báo cáo cũng chỉ ra sự bất cập về việc quy định lập hai loại kế hoạch đối với hai hoạt động có tính chất giống nhau. Cụ thể, Điểm a khoản 1 Điều 108 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phương tiện vận tải có nguy cơ gây ra sự cố môi trường phải lập kế hoạch phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường.

Khoản 4 Điều 36 Luật Hóa chất năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định chủ đầu tư dự án hoạt động hóa chất thuộc Danh mục quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật Hóa chất phải xây dựng kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất.

Tuy nhiên, nội dung kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất có nhiều điểm tương đồng, đặc biệt là các sự cố môi trường do hóa chất gây ra. Do đó, việc quy định lập hai loại kế hoạch có tính chất tương đồng nhau như trên dẫn đến khó khăn, phiền hà cho chủ thể thực hiện.

Chưa rõ quyền sử dụng đất của từng thành viên trong gia đình

Chính phủ cũng chỉ ra có sự bất cập về việc chưa quy định rõ quyền sử dụng đất của từng thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất.

Tại Điểm i khoản 1 Điều 99 Luật Đất đai năm 2013 quy định các trường hợp được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi tắt là Giấy chứng nhận), trong đó có đối tượng là thành viên hộ gia đình.

Tuy nhiên, Luật chưa quy định cụ thể về cách thức cấp Giấy chứng nhận dẫn đến quyền sử dụng đất của từng thành viên trong hộ gia đình không được xác lập cụ thể, có thể phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp về quyền sử dụng đất của các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất khi thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013, tiêu chí xác định thành viên hộ gia đình sử dụng đất gồm: quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.

Quy định cách xác định thành viên hộ gia đình như trên còn có những bất cập dẫn đến việc xác định thành viên hộ gia đình gặp nhiều khó khăn và không thực sự chính xác trong nhiều trường hợp.

Ví dụ tiêu chí thành viên hộ gia đình là “những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng” và tiêu chí “đang sống chung” rất khó định lượng được thế nào là sống chung, thế nào là nuôi dưỡng và ngay cả trong quan hệ huyết thống thì chưa xác định được quan hệ này được tính đến bao nhiều đời (thế hệ).

Một nội dung khác là bất cập trong việc quy định diện tích đất tối thiểu được tách thửa.

Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 thì “Căn cứ vào quỹ đất của địa phương và quy hoạch phát triển nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, UBND cấp tỉnh quy định hạn mức đất giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân để làm nhà ở tại nông thôn; diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất ở phù hợp với điều kiện và tập quán tại địa phương” (khoản 2 Điều 143); “UBND cấp tỉnh căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị và quỹ đất của địa phương quy định hạn mức đất ở giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân tự xây dựng nhà ở đối với trường hợp chưa đủ điều kiện để giao đất theo dự án đầu tư xây dựng nhà ở; diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất ở” (khoản 4 Điều 144).

Như vậy, theo quy định tại Luật Đất đai năm 2013, UBND cấp tỉnh chỉ được giao quy định diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất ở đô thị và đất ở nông thôn. Trong khi đó, thực tiễn và yêu cầu quản lý đất đai hiện nay đặt ra yêu cầu cần phải giao UBND cấp tỉnh quy định về diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất.

Do đó, Chính phủ cần thực hiện tổng kết những khó khăn, vướng mắc cụ thể đối với việc không quy định diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất, từ đó có phương án đề xuất thích hợp sửa đổi văn bản QPPL để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Lam Thanh