TS Cấn Văn Lực: Cần có gói hỗ trợ giai đoạn 2 khoảng 150.000 tỉ đồng
Kinh tế - đầu tư - dự án - Ngày đăng : 06:57, 02/09/2020
Triển vọng kinh tế Việt Nam từ các gói hỗ trợ
Chia sẻ với PV Một Thế Giớivề tình hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam dưới tác động của dịch COVID-19 và tình hình triển khai các gói hỗ trợ, TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tếcho biết, đối với Việt Nam,tăng trưởng kinh tế năm 2020 dự báo ở mức khoảng 1,5-2% và năm 2021 phục hồi mạnh, khoảng 6,8-7%.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng ban hành nhiều chính sách hỗ trợ chưa có tiền lệ nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn, giúp phục hồi nền kinh tế. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên quá trình triển khai rất chậm và chưa đạt kết quảnhư mong muốn.
Theo TS Cấn Văn Lực, đến nay, Chính phủ Việt Nam đã có 4 gói hỗ trợ (tổng giá trị thực - tức là tổng chi phí mà Chính phủ và hệ thống ngân hàngcam kết bỏ ra ước tính khoảng 181.400 tỉ đồng, tương đương khoảng 3% GDP năm 2019), bao gồm:
Thứ nhất là gói hỗ trợ tài khóa với giá trị ước tính 73.100 tỉ đồng (1,2% GDP) theo Nghị quyết 41 (tháng 4.2020): bao gồm các biện pháp cho phép miễn, giảm thuế, phí, lệ phí (khoảng 69.300 tỉ đồng) và gia hạn nộp thuế,tiền thuê đất (khoảng 180.000 tỉ đồng trong 5 tháng, song thực chất là giãn, hoãn nộp và người dân, doanh nghiệp vẫn phải trả khi đến hạn, giá trị hỗ trợ ở đây chính là phần không tính lãi khi gia hạn, ước tính 3.825 tỉ đồng).
Theo các báo cáo, tổng số tiền gia hạn tính đến 30.7 mới chỉ là 53.645 tỉ đồng, chiếm khoảng 30% quy mô gói hỗ trợ. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, không có doanh thu, hoạt động cầm chừng, một số thì đã nộp tiền thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2019 ngay trong quý 1/2020, một số thì đã trả tiền thuê đất từ đầu năm nên số tiền còn phải nộp không nhiều hoặc không có nhu cầu giãn, hoãn. Bên cạnh đó còn là tâm lý e ngại thủ tục rườm rà.
Thứ hai là gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng có giá trị ước tính 36.600 tỉ đồng (0,6% GDP) bao gồm: phần giảm lãi suất khi các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay mới với lãi suất ưu đãi (giảm 1-2,5%/năm so với thông thường) với quy mô cam kết khoảng 600.000 tỉ đồng, các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ mà vẫn giữ nguyên nhóm nợ (không tính lãi phạt); miễn, giảm lãi (giảm 0,5-1,5% cho các khoản vay hiện hữu bị ảnh hưởng); miễn, giảm phí, nhất là phí thanh toán và một số phí dịch vụ khác...
Các khoản hỗ trợ này dẫn đến giảm lợi nhuận trước thuế (giảm 20-25%) cả năm 2020 của các TCTD và giảm thu ngân sách tương ứng. Song song đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã 2 lần giảm các lãi suất điều hành, giúp các TCTD có điều kiện giảm lãi suất. Theo NHNN, đến ngày 13.7 vừa qua, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho hơn 272.000 khách hàng với dư nợ hơn 210.000 tỉ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho 435.000 khách hàng với dư nợ hơn 1,27 triệu tỉ đồng; cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế đạt 1,17 triệu tỉ đồng cho hơn 247.000 khách hàng.
Thứ ba là gói an sinh - xã hội có giá trị khoảng 45.800 tỉ đồng (0,8% GDP), chứ không phải 62.000 tỉ đồng (bởi vì chi phí của gói hỗ trợ cho vay trả lương về bản chất chỉ là phần tiền lãi không tính do lãi suất là 0% - khoảng 390 tỉ đồng); đến hạndoanh nghiệp vẫn phải trả lại phần tiền gốc đã vay.
Tính đến ngày 13.7 vừa qua, đã thực hiện giải ngân khoảng 11.600 tỉ đồng để hỗ trợ 11,5 triệu người và 9.400 hộ kinh doanh. Nhìn chung, công tác chi trả về cơ bản đã đảm bảo đúng đối tượngsong tiến độ còn rất chậm. Trong khi đó, gói 16.000 tỉ đồng cho vay hỗ trợ trả lương chưa giải ngân được do điều kiện đặt ra còn chưa phù hợp, chưa sát thực tiễn; quy trình, thủ tục còn phức tạp, xử lý lâu khiến nhiều doanh nghiệp e ngạivàtự xoay sở.
Thứ tư là các gói hỗ trợ khác với tổng giá trị 26.000 đồng (0,43% GDP) bao gồm gói hỗ trợ giảm 10% giá điện của EVN trị giá 10.900 tỉ đồng và gói hỗ trợ giảm giá dịch vụ viễn thông trị giá trị 15.000 tỉ đồng. Đến hết ngày 30.6, EVN đã giảm giá, giảm tiền điện cho 26,79 triệu khách hàng với tổng số tiền 6.800 tỉ đồng (62,4%). Đối với gói giảm giá dịch vụ viễn thông, hiện chưa có thông tin công bố kết quả thực hiện cụ thể.
"Như vậy, có thể thấy trong 4 gói hỗ trợthì gói tiền tệ - tín dụng và giảm tiền điện đạt kết quả khả quan, còn lại rất chậm và còn vướng mắc, cần sớm khắc phục", TS Lực nhấn mạnh.
Một số khuyến nghị
TS Cấn Văn Lực đề xuất trong thời gian tới, Chính phủ cần tập trung tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ và triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ hiện tại để góp phần giảm thiểu các tác động do dịch bệnh gây ra.
Đối với gói tài khóa, cần sớm quyết định cho phép gia hạn thời gian giãn, hoãn thuế, tiền thuê đất (trước mắt là hết năm 2020 hoặc hết quý 2/2021) để doanh nghiệp đỡ khó khăn về thanh toán chi phí. Cùng với đó là trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn vào kỳ họp tháng 10.2020; rà soát để tiếp tục miễn, giảm 1 số khoản phí khác.
Đối với gói tiền tệ - tín dụng, cần sớm sửa đổi Thông tư 01 (mở rộng đối tượng hỗ trợ và gia hạn thời gian giãn, hoãn nợ, cân nhắc thời điểm phải chuyển nhóm nợ cho phù hợp để giảm bớt khó khăn cho các tổ chức tín dụng, tránh nợ xấu tăng đột biến...).
Đối với gói an sinh - xã hội, cần sớm sửa đổi Quyết định 15/2020/QĐ-TTg (nhất là gói cho vay hỗ trợ trả lương; cần nới điều kiện và thời hạn cho vay nên dài hơn, từ 6-12 tháng), đồng thời xem xét mở rộng đối tượng hỗ trợ sang cả lao động phi chính thức như đề xuất dưới đây.
Song song với việc tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ các gói hỗ trợ giai đoạn 1, TS Cấn Văn Lực đề xuất cần sớm xây dựng một số chính sách, gói hỗ trợ bổ sung (giai đoạn 2) với giá trị khoảng 150.000 tỉ đồng (tương đương 2,5% GDP) từ quý 4/2020 đến hết năm 2021. Như vậy, tổng giá trị các gói hỗ trợ của cả 2 giai đoạn sẽ vào khoảng 331.400 tỉ đồng (5,5% GDP), sẽ khiến thâm hụt ngân sách nhà nước tăng thêm khoảng 1% GDP mỗi năm 2020-2021 (so với trường hợp không bổ sung). Cụ thể:
Gói tài khóa mới trị giá khoảng 51.000 tỉ đồng, tương đương 0,85% GDP, gồm: tiếp tục gia hạn giãn, hoãn thuế và tiền thuê đất thêm 10 tháng nữa (đến hết tháng 6.2021); quy mô 360.000 tỉ đồng, song chi phí thực chất là không tính phí giãn, hoãn nộp (tương đương lãi suất gửi tiền 10 tháng tại ngân hàng) và người dân, doanh nghiệp vẫn phải trả khi đến hạn, giá trị hỗ trợ ước tính 7.650 tỉ đồng; điều chỉnh giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 20% xuống 15-17% đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) (từ năm 2021)như Luật hỗ trợ DNNVV đã cho phép, với tổng mức giảm thu ngân sách sẽ vào khoảng 2.881 tỉ đồng.
Xem xét giảm 1% thuế VAT trong năm 2021 nhằm thúc đẩy tiêu dùng trong nước (giảm thu ngân sách khoảng 37.576 tỉ đồng); hỗ trợ lãi suất, tăng khả năng tiếp cập vốn cho DNNVV bằng cách tăng cho vay qua Quỹ phát triển DNNVV và khởi động hoạt động thực chất của các quỹ bảo lãnh vay vốn DNNVV (quy mô gói tín dụng ưu đãi này khoảng 60.000 tỉ đồng). Việc cho vay thực hiện qua Quỹ phát triển DNNVV và ngân hàng thương mại. Thời hạn cho vay tối thiểu là 1 năm, lãi suất khoảng 4%/năm, nguồn vốn cấp bù lãi suất từ ngân sách nhà nước(giá trị hỗ trợ khoảng 3.000 tỉ đồng).
Gói tiền tệ - tín dụng bổ sung, bao gồm: cho vay lãi suất ưu đãi cho một số đối tượng rõ ràng, minh bạch, có lộ trình kết thúc cụ thể: cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi quy mô khoảng 450.000 tỉ đồng cho một số doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính trong một số lĩnh vực rất khó khăn như vận tải, du lịch, dệt may, da giày, giáo dục -đào tạo… với điều kiện phải đáp ứng ít nhất 5 tiêu chí sau: tính lan tỏa (tác động tích cực tới các ngành, lĩnh vực khác), lao động (tạo nhiều công ăn việc làm), có khả năng áp dụng công nghệ và năng lượng sạch, có khả năng phục hồivà cam kết không sa thải nhân viên (hoặc không quá 10%).
Nguồn hỗ trợ lãi suất khi đó sẽ khoảng 9.000 tỉ đồng, huy động từ ngân sách nhà nước. Thúc đẩy cho vay tiêu dùng theo hướng hoàn thiện cơ chế, chính sách trong việc phân rõ hơn giữa cho vay tiêu dùng của công ty tài chính với ngân hàng thương mại; hoàn thiện hành lang pháp lý trong việc quản lý, giám sát các công ty tài chính và đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia, góp phần thúc đẩy tài chính -ngân hàng số.
Tăng cường cho vay tái cấp vốn và xem xét giảm phí bảo hiểm tiền gửi đối với các TCTD trên cơ sở phân loại TCTD của NHNN (từ quý 4/2020 đến hết năm 2021), để các TCTD có điều kiện tiếp tục giảm lãi suất cho vay; thúc đẩy gói cho vay nhà ở xã hội (gói 3.000 tỉ đồng…) và Bộ Xây dựng chủ trì sớm đề xuất cơ chế động lực để doanh nghiệpđầu tư phát triển nhà ở xã hội; khuyến khích cho vay đầu tư trang thiết bị y tế, hạ tầng y tế, nghiên cứu vắc xin, hạ tầng viễn thông (5G) và các lĩnh vực ưu tiên khác.
Gói an sinh xã hội sẽ vào khoảng 90.000 tỉ đồng, bao gồm: mở rộng đối tượng hỗ trợ, trong đó bổ sung đối tượng lao động phi chính thức với mức hỗ trợ dự kiến là 900 nghìn đồng/người/thángtrong 3 tháng (quý 4/2020) với quy mô dự kiến là 86.000 tỉ đồng; hỗ trợ chi phí đào tạo nghề cho lao động chuyển nghề do mất/thay đổi việc làm, nâng cao tay nghề để có thể tận dụng cơ hội dịch chuyển vốn đầu tư/chuỗi sản xuất...Quy mô chương trình dự kiến 3.400 tỉ đồng/năm, trong đó 50% từ ngân sách trung ương vàngân sách địa phương, 50% từ đóng góp của các doanh nghiệp hưởng lợi từ lao động được đào tạo này.
Tuyết Nhung