13 năm sau đánh giá của WB, DNNN tại Việt Nam vẫn thua xa quốc tế về quản trị
Kinh tế - đầu tư - dự án - Ngày đăng : 11:58, 23/09/2019
Chưa đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
Tại Hội thảo kiến nghị quan điểm, phương hướng cơ cấu lại DNNN đến 2030, kế hoạch 2021-2025 diễn ra sáng 23.9, theo Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM), từ năm 2000 đến nay chưa hề có văn kiện chính thức giải thích rõ nội hàm “chủ đạo” của kinh tế nhà nước.
Tuy nhiên, có thể xem vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nếu xét ở các mặt như đóng góp quyết sách cho hệ thống cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng cho các thành phần kinh tế khác; là lực lượng vật chất để Nhà nước phân phối nguồn lực, trực tiếp cung cấp hầu hết các dịch vụ công; hệ thống sở hữu tài sản toàn dân đang được giao cho các thành phần kinh tế khai thác, sử dụng…
Theo CIEM, năm 2006, Ngân hàng Thế giới đã có đánh giá về tình hình tuân thủ nguyên tắc và chuẩn mực quản trị công ty Việt Nam, bao gồm cả DNNN, trong đó đánh giá: Căn bản chưa được tuân thủ. Sau 13 năm, nhìn lại 6 nguyên tắc và tiêu chí theo OECD, quản trị DNNN ở Việt Nam còn khoảng cách khá xa với thông lệ quốc tế.
Theo viện nghiên cứu này, trên thực tế DNNN Việt Nam chưa được đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo cơ chế thị trường.
Cụ thể, DNNN Việt Nam bị hạn chế về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Pháp luật Việt Nam đã quy định chi tiết các trường hợp DNNN phải xin ý kiến chấp thuận hoặc phê duyệt của cơ quan đại diện vốn chủ sở hữu, cơ quan tài chính và các cơ quan liên quan về quản lý tài chính, tài sản, doanh thu, lợi nhuận, đầu tư ra bên ngoài, huy động vốn…
DNNN cũng phải tuân thủ các quy định đặc thù về hạn chế quyền tài sản như: phạm vi đầu tư ra bên ngoài, giới hạn hệ số nợ, không có thẩm quyền chuyển nhượng vốn đầu tư ra ngoài, tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc bảo toàn vốn trong chuyển nhượng cổ phần/vốn góp, xin ý kiến góp ý, ý kiến thẩm định của nhiều cơ quan nhà nước trong đầu tư các dự án quy mô lớn (kể cả các dự án do doanh nghiệp tự vay tự trả).
DNNN cũng bị hạn chế về quyền tuyển dụng, bổ nhiệm người quản lý, điều hành. CIEM cho rằng quy định hiện hành về điều kiện bổ nhiệm người quản lý, trước hết là điều kiện quy hoạch cán bộ, sẽ làm khó việc tìm kiếm, lựa chọn, ký kết hợp đồng với người quản lý giỏi từ thị trường để bổ nhiệm vào các chức danh quản lý doanh nghiệp nhà nước. Ngay cả quyền tự do thỏa thuận tiền lương ở DNNN cũng bị hạn chế, bởi pháp luật hiện hành quy định tiền lương gắn với hiệu quả kinh doanh nhưng vẫn khống chế mức thưởng tối đa.
Một hạn chế khác được CIEM chỉ ra là sự hạn chế về quản lý, giám sát DNNN. Cụ thể, cơ quan đại diện vốn chủ sở hữu vẫn đan xen với cơ quan hành chính nhà nước, kể cả khi đã thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phát triển ngành lại đan xen với chính sách của nhà nước; đầu tư nhà nước phục vụ lợi ích chung đan xen với với đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước và đầu tư của DNNN.
“Cách thức điều hành và công nghệ quản lý tại nhiều doanh nghiệp còn lạc hậu. Trách nhiệm giám sát từ bên ngoài không rõ, trong khi kiểm soát, giám sát nội bộ thường bị vô hiệu”, báo cáo của CIEM viết.
Hội thảo kiến nghị quan điểm, phương hướng cơ cấu lại DNNN đến 2030, kế hoạch 2021-2025 - Ảnh: Lam Thanh
Mục tiêu tái cơ cấu DNNN hợp lý chưa đạt được
Báo cáo của CIEM cho hay giai đoạn 2011 - 2020 ước tính sẽ đạt mục tiêu “chuyển DNNN thành doanh nghiệp đa sở hữu” thông qua việc cổ phần hóa khoảng 750 doanh nghiệp.
Mặc dù đã thu được một số thành tựu nhưng CIEM cho rằng đến năm 2020, Việt Nam vẫn khó đạt mục tiêu thu hút đầu tư xã hội, vì vậy mục tiêu của tái cơ cấu là “DNNN có cơ cấu hợp lý hơn” chưa đạt được.
Xét về mục tiêu nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2020, CIEM cho biết chất lượng tăng trưởng, hiệu quả đầu tư của DNNN còn thấp. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng giữa doanh thu và nguồn lực đầu vào (vốn, tài sản). Điều này dẫn tới để tạo ra 1 đồng doanh thu, DNNN phải sử dụng nhiều vốn hơn doanh nghiệp khác.
Chỉ số vay vòng vốn (hiệu quả sử dụng vốn) của DNNN đang đứng thấp nhất trong 3 loại hình doanh nghiệp theo sở hữu. Giai đoạn 2015-2017, chỉ số quay vòng vốn của DNNN lần lượt là 0,47; 0,38 và 0,34 - thấp hơn nhiều so với bình quân cả nước, lần lượt là 0,66; 0,67 và 0,67.
Tỷ suất lợi nhuận của DNNN cũng thấp hơn so với giai đoạn trước; rủi ro vay nợ vẫn còn lớn (vào năm 2017, hệ số nợ/vốn chủ sở hữu của DNNN là 4,2 lần, cao nhất trong 3 nhóm doanh nghiệp).
Vị trí của DNNN ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng khá khiêm tốn, khi doanh thu chỉ chiếm 11% và tài sản chỉ chiếm 8%.
Đánh giá chung về kết quả tái cơ cấu DNNN, CIEM cho rằng mục tiêu “sắp xếp, cổ phần hóa thoái vốn nhà nước để DNNN có cơ cấu hợp lý hơn” chỉ hoàn thành ở mức thấp.
Mục tiêu “đầu tư không dàn trải, nâng cao hiệu quả, năng lực quản lý, năng lực quản trị theo chuẩn quốc tế, bình đẳng với doanh nghiệp khác” chỉ hoàn thành ở mức độ trung bình.
Mục tiêu “tập trung xử lýdứt điểm các tồn tại, yếu kém phù hợp với quy định của pháp luật, theo cơ chế thị trường” chưa hoàn thành.
Mục tiêu “hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát, sớm tách chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước của các bộ ngành/địa phương” chỉ hoàn thành ở mức độ trung bình.
Lam Thanh