Dê trong đời sống văn hóa người Việt

Câu chuyện văn hóa - Ngày đăng : 06:00, 19/02/2015

Người ta cũng thường liên hệ giữa con dê và người có máu dê. Bà con thường chỉ trích và cảnh cáo những kẻ già đa tình hay sàm sỡ một cách bừa bãi, có ngày gặp tai nạn: Ai sinh vào năm dê đều mang tuổi Mùi. Đây là hình ảnh một cụ dê...

Tuổi Mùi là con dê nhà

Có sừng, có gạc, râu ra um sùm.

(Vè 12 con giáp)

Tuổi Mùi là tuổi tốt, dù mang tiếng là dê, nhưng dê dựng vợ, gả chồng theo các ông thầy lý số. Do đó, tuổi Mùi ai cũng thích, nhưng tánh dê thì không ưa:

Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi

Em đây luông những ngậm ngùi tuổi Thân.

(Ca dao)

Người ta ăn thịt dê quanh năm, nhưng tết đến xuân về, món dê cũng được chọn là một thực đơn quý.

Thịt dê làm được nhiều món ngon và bổ không thua gì thịt bò, thịt heo.

Tuy đứng sau con ngựa, nhưng con dê cũng biểu tượng sự sung túc, mang nhiều sức sống sung mãn, đem lại cho người đời sự ấm no, hạnh phúc:

Năm Ngọ, mã đáo thành công

Năm Mùi, dê béo, rượu nồng phù phê.

(Về miền quê)

Dê béo là dê thịt ngon nhất, một món ăn khá hấp dẫn được kế một trong ba cái thú vị mà con người ca ngợi, không ai là không thèm khi nói đến. Tuy nó thiên về vật chất quá, nhưng cũng là người trần mắt thịt, chớ có ai là Tiên, là Phật đâu:

Thế gian, ba sự khôn chừa

Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ.

(Ca dao)

Người ta cũng thường liên hệ giữa con dê và người có máu dê. Bà con thường chỉ trích và cảnh cáo những kẻ già đa tình hay sàm sỡ một cách bừa bãi, có ngày gặp tai nạn:

Dê xồm ăn lá khô qua

Ăn nhiều sâu rọm, chết cha dê xồm.

(Vè)

Thói dê của bọn tình ái lung tung hoang tàng bị người đời nguyền rủa khá nặng nề.

Phụng hoàng đậu nhánh sa kê

Ông thần không vật thằng dê cho rồi.

(Ca dao)

Trong thơ “Lục Vân Tiên”, cụ Nguyễn Đình Chiều có tả lúc nàng Kiều Nguyệt Nga trên đường quanh co, khúc khuỷu đến phủ đường của Kiều công:

Trải qua dấu thỏ đường dê

Chim kêu, vượn hú bốn bể núi cao.

(Lục Vân Tiên)

Đoạn quan trạng Lục Vân Tiên “vinh quy bái tổ” gặp lại Nguyệt Nga, giữa lúc mọi người tổ chức vui mừng hạnh phúc của đôi trai tài gái sắc, thì lúc đó bộ mặt của Bùi Kiệm đã từng “dê” Nguyệt Nga, trở thành trơ trẽn:

Còn người Bùi Kiệm máu dê

Ngồi chai bộ mặt như giề thịt trâu.

(Lục Vân Tiên)

Trong dân gian, từ dê đã biến dạng thành de. Chữ de gốc từ dê mà thôi. Nó làm cho ngôn ngữ thêm vô cùng phong phú, trữ tình:

Bắp non mà nướng lửa lò

Đố ai de được con đò Thủ Thiêm.

(Ca dao)

De tức là gần gũi o bế, tạo hiểu biết kích thích cho nhau. Dê là thuộc tính của đàn ông, trái lại đàn bà cũng biết dê đấy chứ, nhưng không bạo dạn như đàn ông. Chữ de vào ca dao, nó khá hay vừa tượng hình, vừa tượng thanh, đầy sức quyến rũ:

Cam sành lột vỏ còn the

Thấy em còn nhỏ anh de để dành.

(Ca dao)

Dê con trông rất dễ thương, thường chạy giỡn hồn nhiên, những nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã một lần chê lũ dê này:

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.

Trong nghề điêu khắc, thợ mộc cùng có chỗ đứng của con dê, vì con dê là một trong ba con vật “tam sinh” (bò, heo, dê) trong các lễ hội được dùng để tế thần:

Bốn cửa anh chạm bốn dê

Bốn con dê đực chầu về tổ tông.

(Ca dao)

Trong các trò chơi dân gian dịp tết, có trò chơi “bịt mắt bắt dê” hào hứng, sôi nổi. Đối với trẻ con, trò chơi này là thú vui hồn nhiên, nhưng đối với các cô cậu thanh niên, thiếu nữ là một dịp để tiếp cận đụng chạm vui đùa với nhau.

Giả vờ bịt mắt bắt dê

Để cho cô cậu dể bề... với nhau

(Vè)

Nhà thơ Bùi Giáng có một thời kỳ chính ông cũng một thời chán đời về mua dê và chăn dê ở quê nhà, núi đồi Quế Sơn tỉnh Quảng Nam, trong khoảng từ 1945 đến 1952, ông đã có bài thơ cảm khái trong đó mô tả về loài dê.

Trời núi đôi ngây ngất nhảy dê nhanh

Thôi từ nay tha hồ em mặc sức

Nhảy múa tung sườn núi vút dòng khe

Thôi từ nay tha hồ em mặc sức

Vang vang lên đôi núi giọng be be

Ngẩng đầu lên! Dê ơi anh thong thả

Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh

Ngẩng đâu lên! Đây lòng anh vàng đá

Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên...

Hay những câu thơ khác về con dê của nhà thơ này: Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm/Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu/Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh/Này đây em Hoa Cà hỡi! Chiếc nâu (mô tả về từng con dê).
Và: Dành riêng mình: Dê hỡi hiểu vì sao?/Vì lòng anh luống âm thầm tha thiết/ Gán đời mình trọn kiếp với dê sao

Dê cũng là hình ảnh tiêu biểu đi vào văn thơ, góp phần tạo nên những tác phẩm nổi tiếng thuộc nhiều thế loại và ở mọi thời đại. Từ các áng văn chính luận sắc bén chống giặc như “Hịch tướng sĩ” (thế kỷ 13) của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có câu “Uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”) hay Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (thế kỷ 19) của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiếu có câu “Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó” đến thơ ca lãng mạn trữ tình như bài “Dê cỏn” (thế kỷ 18) của bà chúa thơ Nôm - nữ sĩ tài hoa Hồ Xuân Hương:

Khéo khéo đi đâu lũ ngân ngơ

Lại đây cho chị dạy làm thơ

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê còn buồn sừng húc dậu thưa”

Còn trẻ em Việt Nam khi chơi trò dung dăng dung dẻ thường thuộc lòng bài đồng dao vui nhộn:

“Dung dăng dung dẻ

Dắt trẻ đi chơi

 Đến cửa nhà trời

Lạy cậu lạy mợ

 Cho cháu về quê

Cho dê đi học

Cho cóc ở nhà

Cho gà bới bếp

Ngồi xệp xuống đây”

Ở một lĩnh vực khác, tĩnh lặng nhưng phong phú, bền vững là hình tượng dê trong kiến trúc, tạo hình, trang trí. Dê được thể hiện khá đa dạng trên tranh, bia, miếu, đình, đền, chùa, rạp, nhà, công sở... với đủ loại chất liệu: đất, đá, vữa, bạc, đồng, gỗ, mực... và bằng nhiều kỹ thuật: tạc, đắp, nặn, xăm, chạm, khắc, đúc, nung, vẽ... Trong lục súc (trâu, gà, chó, lợn, dê, ngựa), có lẽ dê là hình tượng tiên phong xuất hiện ở các chùa chiền cổ xưa - nơi vốn thường chỉ thấy hình ảnh các loài vật linh thiêng, cao quý (rồng, hổ...). Chẳng hạn, tại bệ đá đặt tượng Phật của ba chùa Bối Khê, Trung, Quế Dương ở Hà Tây (cuối thế kỷ 14) đều có khắc hình dê vui tươi, miệng ngậm cành lộc, đầu ngoảnh về phía sau. Tại bệ đá chùa vắp ở Yên Bái cũng khắc hình dê tương tự (nhưng miệng không ngậm gì). Chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh (đầu thể kỷ 17) hiện diện hơn 50 bức chạm nổi trên lan can đá, trong đó một bức bên trái thượng điện chạm rất tinh tế ba con dê: một con nằm nhởn nhơ trên cỏ, hai con còn lại với tư thế sinh động khác nhau đang ngang nhìn bầu trời cao rộng có vầng dương lấp ló sau áng mây. Cùng thời gian này, tại nhiều chùa khác, còn thấy trang trí những hình tượng dê đang đùa giỡn vui nhộn (đôi khi đến mức hài hước) trên bia và khánh đá...

Tóm lại, do được thuần dưỡng từ rất sớm và được nuôi phổ biến, loài dê đã tạo ra giá trị tinh thần phong phú, ảnh hưởng sâu rộng đến tâm linh và đời sống văn hóa nghệ thuật của người Việt Nam.

Quốc Đại / Làng Cười

Một Thế Giới