Cần làm gì để 'con gà đẻ trứng vàng' của Việt Nam bay cao hơn
Tài chính và đầu tư - Ngày đăng : 06:02, 15/03/2016
Với việc thuế suất với hàng dệt may Việt Nam ở nhiều hạng mục sẽ được giảm về mức 0% trong các hiệp định thương mại như TPP hay FTA EU-Việt Nam, thì việc lợi thế mà ngành dệt may nhận được là điều không có gì phải bàn cãi. Tuy nhiên, để tận dụng được tối đa những lợi thế này, thì ngành dệt may Việt Nam cần một chính sách hỗ trợ đặc biệt, để đón đầu những lợi thế lớn đó.
Trong thời gian vừa qua, các kênh truyền thông của Việt Nam cũng như thế giới đã nói quá nhiều đến các lợi ích mà lĩnh vực dệt may của chúng ta có thể nhận được thông qua các quy định trong những hiệp định thương mại lớn, như TPP hay FTA EU-Việt Nam, tuy nhiên những quan điểm thực tế về việc làm thế nào để tận dụng được các lợi thế đó thì lại không có nhiều. Một nguyên tắc cơ bản của các hiệp định thương mại là lợi ích chỉ đến với những ai có sự chuẩn bị tốt nhất để tận dụng nó, chứ không phải là sung để cứ há miệng là rơi vào. Trên thực tế, ngành dệt may của Việt Nam đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề nội tại cũng như những vấn đề mà các hiệp định thương mại đem lại, mà nếu không được xử lý một cách hiệu quả, thì không những không tận dụng được thời cơ và lợi ích mà còn có thể lâm vào tình trạng bị chèn ép và giảm sút khả năng hoạt động.
Trong khi đó, các thách thức mà những quy định trong các hiệp định thương mại đem lại cho ngành dệt may lại đang lớn hơn bao giờ hết. Theo nhận định của các chuyên gia thì vấn đề quy tắc xuất xứ từ sợi và vải của TPP và FTA EU-Việt Nam không chỉ đơn thuần là một bài toán khó cho ngành dệt may, mà còn là một yếu tố có thể thay đổi hoàn toàn cuộc chơi và tạo ra sức ép rất lớn đối với các doanh nghiệp dệt may nội địa. Quy định này yêu cầu các sản phẩm dệt may được sản xuất tại Việt Nam phải sử dụng nguyên phụ liệu dệt may có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam hoặc từ các nước thành viên TPP khác nếu như muốn nhận được khoản ưu đãi về thuế suất. Trong khi đó, ở thời điểm hiện tại, có tới 70-75% nguyên phụ liệu dệt may của Việt Nam là nhập khẩu chủ yếu là từ Trung Quốc. Khả năng sản xuất nguyên phụ liệu trong nước chỉ đáp ứng được 20-25% nhu cầu của toàn ngành.
Xu hướng của ngành dệt may ở thời điểm hiện tại vì thế đang là tập trung đầu tư vào ngành sản xuất nguyên phụ liệu tại thị trường trong nước để đón đầu các quy định của TPP và FTA EU-Việt Nam. Tuy nhiên, khu vực đầu tư vào công đoạn này hiện đang chủ yếu là các doanh nghiệp FDI. Hàng loạt dự án dệt may của doanh nghiệp FDI được cấp phép đầu tư trong thời gian qua chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp phụ trợ dệt may như dệt, nhuộm với số vốn lên đến hàng triệu USD. Chẳng hạn như Công ty TNHH Hyosung Đồng Nai với tổng vốn đầu tư 600 triệu USD đến từ Thổ Nhĩ Kỳ tập trung vào sản xuất và gia công các loại sợi.
Điều này đang dẫn đến nguy cơ phần lớn các doanh nghiệp dệt may trong nước vốn quen với việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài và không đủ tiềm lực để tự đảm bảo các nguyên phụ liệu này, có thể gặp những khó khăn lớn sau khi TPP đi vào hoạt động. Khi đó, không những các doanh nghiệp này không nắm được cơ hội mà TPP đem lại cho ngành dệt may, mà thậm chí còn lâm vào cảnh sa sút và trì trệ do các quy định về xuất xứ của TPP giờ đây lại đang trở thành rào cản. Và rõ ràng là chúng ta không thể chờ đợi khối FDI sẽ đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ dệt may của Việt Nam, để sản xuất và cung cấp nguyên phụ liệu dệt may cho các doanh nghiệp trong nước không có đủ khả năng và tiềm lực để tự mình thực hiện được.
Nhàn Đàm (bài viết có sử dụng một số thông tin từ CafeF, The Saigon Times)