Băn khoăn về chuyện trồng cây gì, nuôi con gì có lợi

Tài chính và đầu tư - Ngày đăng : 15:00, 22/01/2016

Như đã phân tích trong kỳ 1 và kỳ 2, ngành chăn nuôi Việt Nam sở dĩ bị đánh giá là lĩnh vực chịu nhiều sức ép nhất sau khi TPP và các FTA đi vào hoạt động ngoài lý do các đối thủ cạnh tranh như Mỹ và Australia quá mạnh trong lĩnh vực nay, thì một nguyên nhân chủ đạo khác là tình trạng của ngành chăn nuôi Việt Nam hiện tại đang quá yếu.
Kỳ 1: Cạnh tranh sao khi Việt Nam tốn 15-20 người để chăm 1.000 con lợn?
Kỳ 2: Vẫn có tia sáng khi bò VN đấu với bò Mỹ trên sân nhà
So với các lĩnh vực chủ chốt khác của nền nông nghiệp như trồng trọt hay thủy hải sản vốn đã thiết lập được những nền tảng nhất định, thì ở ngành chăn nuôi gần như là con số 0 tròn trĩnh. Để vực dậy một lĩnh vực gần như hoàn toàn chưa có gì trong khi thời gian lại quá gấp gáp, đòi hỏi một giải pháp toàn diện và mang tính liệu pháp mạnh để xốc dậy toàn ngành chăn nuôi ở thời điểm hiện tại.

Cần xây dựng một cơ chế tổng thể và toàn diện cho ngành chăn nuôi

Sở dĩ ngành chăn nuôi Việt Nam ở thời điểm hiện tại bị đánh giá là gần như hoàn toàn chưa có gì, là do Việt Nam gần như chưa có được bất cứ một mảnh ghép nào trong bức tranh toàn cảnh về ngành chăn nuôi. Chúng ta đang phải nhập con giống, nhập nguyên liệu để sản xuất thức ăn chăn nuôi đồng thời phần lớn thức ăn chăn nuôi mà Việt Nam phải mua là của các doanh nghiệp nước ngoài. Đó là chưa kể, các mô hình phát triển chăn nuôi quy mô lớn cũng rất hạn chế. Nói tóm lại, ngoại trừ công đoạn chăm sóc vật nuôi vốn chỉ là sức lao động thuần túy, thì ngành chăn nuôi Việt Nam hiện đang phải nhập khẩu từ nước ngoài từ A đến Z.

Chính việc hầu như chưa có gì trong tay đã khiến cho giá cả và chất lượng sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam đang trở nên thiếu tính cạnh tranh đến thế ở thời điểm hiện tại. Nó sẽ không được giải quyết chỉ với một vài trang trại chăn nuôi quy mô lớn mà các tập đoàn trong nước vừa đổ vốn vào xây dựng, như Hoàng Anh Gia Lai, Vingroup hay gần đây là BIDV. Vì dù đã thành lập các trang trại chăn nuôi quy mô lớn thì con giống, thức ăn chăn nuôi chúng ta vẫn chưa thể tự sản xuất và vẫn phải nhập khẩu, trong bối cảnh giá thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam trung bình cao hơn 10 – 20% so với các nước trong khu vực, thì rõ ràng đây vẫn là một bất lợi lớn.

Vì thế, việc cần làm là cùng lúc tiến hành đặt cơ sở phát triển cho các bộ phận khác của ngành chăn nuôi như sản xuất thức ăn chăn nuôi và nghiên cứu lai giống. Không chỉ giúp giảm chi phí sản xuất và chăn nuôi, mà việc phát triển hai lĩnh vực chủ chốt này còn đem lại những nguồn lợi lớn cho nền kinh tế. Chẳng hạn như lĩnh vực thức ăn chăn nuôi, doanh thu của toàn bộ thị trường Việt Nam trong lĩnh vực này đã lên tới 6 tỷ USD và được dự báo sẽ tăng mạnh trong vòng 5 năm tới với mức tăng trưởng 13-15%/năm. 
Cụ thể là tính đến thời điểm năm 2015 Việt Nam cần khoảng 15-18 triệu tấn thức ăn chăn nuôi, con số này được dự báo sẽ tăng lên 25-26 triệu tấn vào năm 2020. Một thị trường hứa hẹn và đầy tiềm năng như vậy nhưng khối FDI lại đang giữ vị trí chủ đạo với 59,15% thị phần, trong đó chỉ riêng CP Group của Thái Lan và Cargill của Mỹ đã chiếm tới 30% thị phần, khối doanh nghiệp nội chia nhau 40,85% thị phần còn lại.

Điều đáng nói ở đây là, phần lớn các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, dù là khối FDI hay khối nội địa, đều đang nhập khẩu hầu hết các nguyên liệu để sản xuất, với trị giá lên tới hơn 2 tỷ USD mỗi năm, trong khi Việt Nam lại đang là một quốc gia có lợi thế về nông nghiệp và hoàn toàn có thể cung cấp các nguyên liệu này mà không cần nhập khẩu. Nếu có thể thiết lập bộ phận cung ứng nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi ở trong nước, thì đó không chỉ đem lại lợi ích cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi, mà còn cho cả nền nông nghiệp Việt Nam. Không những thế, Việt Nam với những lợi thế về nông nghiệp của mình, hoàn toàn có thể trở thành một quốc gia xuất khẩu nguyên liệu để sản xuất thức ăn chăn nuôi lớn trong khu vực và trên thế giới.

Cần một mô hình chăn nuôi hiện đại và hiệu quả đóng vai trò chủ đạo

Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất đối với ngành chăn nuôi Việt Nam hiện nay vẫn là thiếu một mô hình chăn nuôi hiện đại và hiệu quả, có thể áp dụng rộng rãi. Một vài trang trại chăn nuôi quy mô lớn trị giá hàng ngàn tỷ đồng của các tập đoàn lớn cũng sẽ không giải quyết được vấn đề của toàn ngành, khi mà vẫn có tới hơn 50% các cơ sở chăn nuôi trên cả nước vẫn là theo mô hình hộ gia đình, trong một số lĩnh vực như chăn nuôi lợn thì tỷ lệ này còn cao hơn, tới 86%. Quá nửa sản phẩm chăn nuôi cung cấp cho thị trường vẫn đến từ mô hình chăn nuôi nhỏ lẻ này, và mô hình trang trại quy mô vừa và lớn vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ vừa phải trong việc cung cấp sản phẩm cho thị trường.

Vấn đề chuyển đổi mô hình sản xuất sang quy mô lớn ở ngành chăn nuôi trên thực tế khó khăn hơn rất nhiều so với trồng trọt. Nó đòi hỏi quá nhiều yếu tố cần đầu tư, từ diện tích chăn nuôi lớn, cho đến đầu tư tài chính để thiết lập chuồng trại, mua con giống và chăm sóc theo quy trình dây chuyền hiện đại. Nếu như trong trồng trọt, các HTX theo mô hình mới có thể giải quyết các vấn đề về đất đai bằng cách hợp nhất đất trồng trọt của các hộ gia đình và liên kết với các doanh nghiệp để được cung cấp giống, công nghệ và tài chính; thì trong chăn nuôi lại không.

Trước hết, việc chuyển đổi quỹ đất từ trồng trọt sang chăn nuôi ở quy mô lớn không phải là chuyện dễ, và không phải ở địa phương nào cũng có thể làm được. Đây là bất lợi của ngành chăn nuôi Việt Nam khi quỹ đất dành cho phát triển hệ thống chăn nuôi không phải là lớn. Thêm vào đó, vốn đầu tư cho chăn nuôi quy mô lớn theo dây chuyền hiện đại đòi hỏi rất lớn, lớn hơn nhiều so với ngành trồng trọt. 
Chỉ có các tập đoàn lớn với nguồn vốn dồi dào mới đủ khả năng đáp ứng những yêu cầu này; các doanh nghiệp cỡ vừa chỉ đủ khả năng thiết lập các trang trại chăn nuôi quy mô vừa phải, dù sẽ có hiệu suất và giá thành thuận lợi hơn so với chăn nuôi hộ gia đình, nhưng để cạnh tranh với ngành chăn nuôi quy mô lớn của Mỹ hay Australia thì rõ ràng là không thể.
Giải pháp đang được các tập đoàn lớn của Việt Nam hướng tới hiện nay là xây dựng các trang trại quy mô lớn tại các địa phương thuận lợi về quỹ đất cho phát triển chăn nuôi, như tại Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, hướng tới biến các tỉnh này thành trung tâm chăn nuôi của cả nước. Nhưng trong bối cảnh ngành chăn nuôi cần chiếm lĩnh thị phần trong nước trước khi các doanh nghiệp nước ngoài tràn vào sau khi TPP đi vào hoạt động, thì rõ ràng các trang trại này chưa đủ khả năng cung ứng cho phần lớn thị trường. 
Ở thời điểm hiện tại, vẫn cần nhân rộng các mô hình trang trại chăn nuôi quy mô vừa và tương đối lớn ở các địa phương. Mô hình này dù không thể sánh bằng các trang trại quy mô lớn, nhưng giá thành và chất lượng sản phẩm cũng sẽ cạnh tranh hơn rất nhiều so với mô hình chăn nuôi hộ gia đình thiếu hiệu quả, đủ để chiếm lĩnh thị phần tại thị trường địa phương, trước khi Việt Nam tìm ra được một giải pháp tổng thể và hiệu quả để hiện đại hóa toàn bộ ngành chăn nuôi trong nước.

Nhàn Đàm (bài viết có sử dụng một số thông tin từ Enternews, Adeco, Zing, Ncseif)

Một Thế Giới