Việt Nam và áp lực cải cách

Tài chính và đầu tư - Ngày đăng : 09:50, 12/01/2016

Đề cập đến những lợi ích lớn nhất mà Việt Nam, khi hội nhập kinh tế, có thể nhận được từ việc gia nhập TPP và các FTA, hầu hết các chuyên gia trong và ngoài nước đều đồng tình rằng một trong số đó là áp lực cải cách một cách toàn diện.
Kỳ 1: Cơ hội ngay trước ngõ nhưng Việt Nam sẽ tận dụng thế nào?
Kỳ 2: Đâu là đôi cánh giúp Việt Nam bay cao?
Tham gia vào TPP và các FTA, Việt Nam sẽ buộc phải tuân thủ khá nhiều quy định nghiêm ngặt liên quan đến những vấn đề cốt lõi như luật pháp, thể chế, thuế quan, các tiêu chuẩn lao động. Tất cả những điều này sẽ tạo ra những thay đổi về tận gốc rễ nền kinh tế và bộ máy điều hành. 
Nếu như tất cả đều nhận thức được lợi ích về tăng cường xuất khẩu hay thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) từ các hiệp định thương mại thì số có thể nhận thức được cụ thể những lợi ích về cải cách thể chế và luật pháp lại tương đối ít. Vì thế, điều quan trọng nhất ở thời điểm hiện tại với Việt Nam là vạch ra được một lộ trình cụ thể để tối ưu hóa các lợi ích nhận được từ áp lực cải cách toàn diện này.
Áp lực cải cách mang tính toàn diện lớn nhất
Có thể nói rằng, với việc gia nhập các hiệp định thương mại lớn và quan trọng như TPP hay các FTA, Việt Nam đang phải đối diện với áp lực cải cách mang tính toàn diện với quy mô lớn nhất kể từ khi mở cửa nền kinh tế giữa những năm 1980 đến nay. Nếu như những lần cải cách trước đó, điển hình như thời điểm mở cửa, Việt Nam chủ yếu vẫn chỉ cải cách một cách tự phát và thiếu hệ thống thì ở thời điểm hiện tại, các quy định chặt chẽ khi gia nhập TPP và ký kết các FTA đang đặt ra trước mặt Việt Nam một yêu cầu cải cách toàn diện và sâu rộng nhất về mọi mặt, theo một quy trình và yêu cầu khắt khe nhất.
Hầu như mọi lĩnh vực quan trọng nhất đối với nền kinh tế Việt Nam đều nằm trong diện phải cải cách. Từ luật pháp như thuế doanh nghiệp, thuế hải quan, luật lao động; cho tới cách thức điều hành nền kinh tế vốn có như yêu cầu đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) với các doanh nghiệp tư nhân, yêu cầu công khai minh bạch quá trình điều hành và quản trị đất nước của chính phủ; cùng với đó là những yêu cầu về bảo vệ môi trường và kiểm soát chất thải.
Tất cả những yêu cầu cải cách này đang được dự báo sẽ tạo ra những thay đổi tận gốc rễ nền kinh tế và cách thức điều hành của Việt Nam từ trước đến nay. Nói cách khác, những tác động mà nó gây ra sẽ không thể dễ dàng đo đếm được. 
Chẳng hạn như trong vấn đề DNNN, sau khi các quy định về đối xử công bằng của chính phủ với các doanh nghiệp của TPP đi vào hoạt động, chính phủ sẽ không còn có thể tiếp tục cung cấp những ưu đãi về vốn, thuế hay bảo lãnh nợ cho các DNNN nữa. Điều này dự báo tạo ra những thay đổi cực lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, khi mô hình phát triển kinh tế sẽ chuyển dịch mạnh từ việc chú trọng vào vai trò của khối quốc doanh sang các bộ phận khác của nền kinh tế, như khối tư nhân. Thậm chí, sẽ có không ít các DNNN rơi vào cảnh khó khăn và ngưng hoạt động sau khi bầu sữa từ chính phủ bị cắt, gây ra những biến động lớn với nền kinh tế.
Những yêu cầu về cải cách hệ thống thuế quan cũng như luật lao động và bảo vệ môi trường cũng được xem là những cải cách động chạm đến những vấn đề cốt lõi của nền kinh tế. Các quy định của TPP và các FTA đang buộc Việt Nam phải chuẩn hóa các lĩnh vực luật pháp này theo tiêu chuẩn quốc tế. Chẳng hạn hệ thống thuế quan, nếu cải cách và minh bạch hóa hệ thống thuế thì trong ngắn hạn thu ngân sách nhà nước từ việc đánh thuế có thể sẽ bị ảnh hưởng, do yêu cầu công bằng về thuế giữa khối quốc doanh với khối tư nhân, giữa khối nội địa với khối FDI.
Điều tương tự sẽ diễn ra trong lĩnh vực luật lao động và bảo vệ môi trường. Nếu cải cách theo đúng những tiêu chuẩn trong TPP về lao động, ưu thế về nhân công giá rẻ của Việt Nam sẽ phần nào bị ảnh hưởng do các yêu cầu về tiền lương và giờ lao động, điều này sẽ buộc các nhà điều hành kinh tế phải tính toán lại những kế hoạch phát triển định xây dựng dựa trên ưu thế nhân công giá rẻ. 
Luật bảo vệ môi trường cũng sẽ khiến hàng loạt những công nghệ cũ, lạc hậu vốn vẫn đang được vận hành trong nền kinh tế bị loại bỏ. Dĩ nhiên về lâu dài đây là điều có lợi, nhưng trong ngắn hạn thì tác động của nó với nền kinh tế là không thể xem thường.
Cần chủ động đi trước trong cải cách
Khi nhắc đến các lợi ích mà Việt Nam nhận được từ TPP và các FTA khi hội nhập kinh tế, hầu hết các chuyên gia đều nhận định áp lực cải cách từ các hiệp định thương mại này sẽ buộc Việt Nam phải cải cách các lĩnh vực đang bế tắc. Điều này có nghĩa là Việt Nam đang muốn dựa vào sức ép đến từ các hiệp định bên ngoài này để phá vỡ sự bế tắc trong hàng loạt các lĩnh vực, mà lẽ ra phải được trong nước đẩy mạnh và hoàn tất từ trước đó.
Việc dựa dẫm vào yêu cầu và các quy định của TPP và các FTA để cải cách thể chế và các lĩnh vực của nền kinh tế trong nước là một việc ẩn chứa rất nhiều rủi ro. Vì số lượng các lĩnh vực cần cải cách sâu rộng của Việt Nam thì quá nhiều, hầu hết đều là các lĩnh vực rất quan trọng, nếu như không có một lộ trình cải cách thật bài bản và hệ thống thì mọi việc sẽ rất dễ vượt ra khỏi tầm kiểm soát khi các áp lực cải cách đến cùng một thời điểm. 
Chẳng hạn như vấn đề luật pháp, Việt Nam sẽ phải thay đổi và điều chỉnh hàng loạt bộ luật để phù hợp với những quy định của TPP, trong khi để thay đổi và điều chỉnh một bộ luật cũng đã tốn nhiều thời gian, thường lên tới hàng năm. Nếu như không chuẩn bị trước và tiến hành lần lượt, chất lượng của những thay đổi này sẽ rất dễ rơi vào tình trạng kém hiệu quả.
Tương tự là hàng loạt các vấn đề kinh tế vĩ mô như cổ phần hóa các DNNN. Sau khi TPP đi vào thực hiện, hàng loạt tập đoàn và DNNN sẽ bị cắt các khoản hỗ trợ từ phía Nhà nước và hoạt động một cách công bằng so với doanh nghiệp tư nhân. Nếu như không thể cổ phần hóa nhanh chóng, sẽ có hàng loạt DNNN phải giải thể hay ngưng hoạt động do nợ nần chồng chất và hiệu quả hoạt động kém. Điều này có thể khiến nền kinh tế gặp một cú sốc trong ngắn hạn, do hầu hết các DNNN có quy mô khá lớn. 
Việt Nam, do đó, cần một lộ trình cải cách và cổ phần hóa các DNNN trước khi TPP đi vào thực hiện. Nhưng thực tế là hiệu quả thực hiện đến thời điểm hiện tại vẫn còn quá thấp, khi mà tiến độ cổ phần hóa các DNNN trong năm 2015 chỉ đạt 173 DN trong khi chỉ tiêu cả năm là 432, đạt chưa đến 40% yêu cầu đề ra.
Nói tóm lại, Việt Nam có quá nhiều việc cần làm trong vấn đề cải cách trong khi chỉ còn hơn 18 tháng nữa là TPP đi vào hoạt động, chưa kể các FTA đã ký trong năm 2015 có thể sẽ còn sớm hơn. Cho nên, lúc này Việt Nam cần một lộ trình cụ thể để giải quyết lần lượt các lĩnh vực cải cách quan trọng nhất, chứ không thể chờ đợi vào những áp lực cải cách sau khi TPP đi vào hoạt động. Vì làm như vậy cũng đồng nghĩa với lãng phí thời gian và cơ hội rất lớn. Cỗ máy cần phải được sửa chữa và bảo dưỡng trước khi cuộc đua bắt đầu, chứ không phải là chờ đến khi cuộc đua bắt đầu mới đem ra sửa chữa. 
Áp lực cải cách toàn diện của TPP và các FTA vì thế cần được hiểu theo nghĩa báo trước, chứ không phải là chờ đến khi nước đến chân mới nhảy. Chỉ một cỗ máy vận hành trơn tru và được bảo dưỡng kỹ lưỡng mới có thể tăng tốc và bứt phá trong cuộc đua được, còn những cỗ máy đến khi cuộc đua bắt đầu mới đem ra sửa chữa thì việc về chót là điều không có gì khó hiểu.
Nhàn Đàm (bài viết sử dụng một số thông tin từ Vneconomy, Tuoitre, Dantri, The Saigon Times)

Một Thế Giới