Phải nhập 80-90% giống lúa lai, ngô lai: Chúng ta 'lười' từ chuyện nhỏ?
Kinh tế - đầu tư - dự án - Ngày đăng : 06:16, 30/08/2014
Cà chua Việt, gốc Đài, ngọn Mỹ
Trong mạng lưới nhập khẩu hạt giống hiện nay trên thế giới, tổng giá trị mỗi năm khoảng 70 tỉ USD thì riêng 6 đại gia: Monsanto, Syngenta, Bayer, Agrosciences, DuPont, BASF đã chiếm 50 tỉ USD.
Theo GS Bửu, không chỉ riêng Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới đều bị phụ thuộc vào nguồn hạt giống nước ngoài. Ngay cả những nước như Brazil, Argentina, khi làm ngô lai chuyển gene, các công ty trong nước đều bị phá sản.
"Đó là hình ảnh cho Việt Nam sắp tới khi các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh với các tập đoàn lớn", ông Bửu nói.
"Điều này cho thấy nước ngoài có nhiều chiêu marketing mà Việt Nam không cạnh tranh lại được. Các công ty của Việt Nam tách bạch các khâu giống ra giống, thức ăn gia súc ra thức ăn gia súc chứ không thành tập đoàn như nước ngoài".
Đặc biệt, có những loại giống trong nước hoàn toàn có thể sản xuất được như bầu bí, dưa leo, đậu bắp, khổ qua... nhưng Việt Nam vẫn phải nhập.
"Ngay như giống cà chua có gì khó đâu nhưng chúng ta không chịu làm. Vì thế cây cà chua gốc ghép là của Việt Nam, còn mắt ghép là của Mỹ. Mắt thì cho năng suất cao, kháng được bệnh, còn gốc toàn là gốc bệnh. Mà nói công bằng, gốc cũng chẳng phải của Việt Nam mà là của Đài Loan, nhưng Việt Nam làm đã lâu và tự sản xuất được nên coi như là của Việt Nam".
Theo GS Bửu, Việt Nam thua hẳn nước ngoài về kinh doanh hạt giống. Ông dẫn bài học của Brazil. Trong khi các công ty Argentina phá sản thì các doanh nghiệp kinh doanh hạt giống của nước này lại sống được vì Brazil làm mạnh hợp tác, nhất là luật về giống.
"Những đạo luật của chính phủ Brazil hỗ trợ rất tốt cho các doanh nghiệp trong nước nên quyền của những đại gia giống nước ngoài như Monsanto dù có nhưng không mạnh", GS Bửu phân tích.
"Còn ở Việt Nam không có gì hết. Chúng ta cứ hô hào chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ngô, đậu tương nhưng không có công ty nào cung cấp được hạt giống đậu tương. Đậu tương tồn trữ rất khó, người nông dân không để giống được vì đậu tương có dầu, không tồn trữ được quá 1 tháng. Chỉ có những công ty lớn có phương tiện hiện đại mới để được đậu tương nhưng Việt Nam lại không đầu tư về kho, cơ sở vật chất".
Bản thân đã có nhiều năm đứng trên bục giảng nhưng ông lấy làm buồn vì ngành công nghệ hạt giống không được coi môn học chính trong các trường đại học. Ở những nước làm chính sách giỏi như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Đan Mạch, ngành công nghệ hạt giống được hẳn một khoa, trong khi đó tại Việt Nam, môn học sinh lý và tồn trữ hạt giống chỉ chiếm 3-4 tiết trong các tiết chọn giống cây trồng.
Nhà khoa học làm thuê cho nước ngoài vì thiếu tiền
GS Bửu cho biết thêm, tổng vốn đầu tư cho khoa học nông nghiệp khoảng 600 tỉ đồng/năm, trong đó 300 tỉ đồng (tương đương khoảng 15 triệu USD) dành trả lương cho cán bộ.
So với một số nước trong khu vực, chẳng hạn như Thái Lan mỗi năm họ dành ra 11 triệu USD, Đài Loan 120 triệu USD, viện Lúa quốc tế 80 triệu USD, chương trình lúa lai của Trung Quốc cũng ngốn hết 50 triệu USD, hay một nước nghèo như Philippines cũng chi 7 triệu USD cho nghiên cứu lai tạo giống lúa… thì số tiền của Việt Nam quả thật chẳng bõ bèn gì.
"Cứ nói giáo dục, khoa học là quan trọng, then chốt nhưng so với các ngành khác, đầu tư cho khoa học nông nghiệp rất kém. Ngay trong 300 tỉ đồng đầu tư cho khoa học nông nghiệp (sau khi đã trừ lương - PV), miền Nam mỗi năm cũng chỉ được 80-90 tỉ đồng, trong khi đây là vùng sản xuất hàng hóa lớn. Cả miền Nam chưa có phòng thí nghiệm trọng điểm nào về gen, chỉ có phòng thí nghiệm trọng điểm về công nghệ tế bào. Trong khi đó, miền Bắc có hàng loạt việc chăn nuôi, trồng trọt...", ông Bửu thẳng thắn.
Nguyên viện trưởng Viện Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp miền Nam cũng chỉ rõ, có những đề tài 40% kinh phí dùng để nghiên cứu thực sự, còn 60% là rơi rớt dọc đường do phong bì, chung chi cho các hội đồng. "Rõ ràng tiêu tiền nhà nước nhiều mà không hiệu quả".
Theo GS Bửu, hiện tư duy chỉ đạo trong nông nghiệp là tư duy số lượng, trong khi tư duy chất lượng rất chậm chạp. Doanh nghiệp Việt Nam chỉ làm động tác nhập khẩu về rồi bán để hưởng chênh lệch giá thay vì đầu tư lâu dài. Cho nên Việt Nam vẫn phải lệ thuộc vào nguồn hạt giống nhập khẩu trong một thời gian dài nữa.