Lính Úc từng bị trục xuất vì quan hệ đồng giới hồi Thế chiến 2
Khoa học - công nghệ - Ngày đăng : 12:00, 09/08/2014
Tiệc sex trong rừng già!
Một đêm nóng bức ở Borneo, 8 người lính Úc ngồi nói chuyện về những ngôi sao điện ảnh họ thích. Khi ấy, cuộc chiến giữa Đồng minh với quân Nhật Bản vừa kết thúc bằng 2 quả bom nguyên tử san bằng Hiroshima và Nagasaki. Tuy nhiên, hầu hết các binh sĩ ở châu Á vẫn ở trong tư thế trực chiến với môi trường toàn đàn ông mà họ đã quen. Họ thèm khát đàn bà nên sự đam mê các thần tượng màn bạc càng dâng cao.
Họ bàn tán sôi nổi về những bộ ngực "khủng", những cặp môi gợi tình, rồi bỗng một anh tuyên bố: "Thèm làm tình quá!". Nhưng khi ai đó bảo: "Suỵt" thì họ im lặng hẳn. Vài ngày sau, 8 anh lính uống nước trái cây lên men đến xỉn, và sau khi so sánh "súng" ai to hơn, họ chộp lấy nhau, chia cặp rồi cùng biến vào màn đêm.
Từ sau đó, một âm mưu giữ kín bí mật được họ hứa với nhau….
Đó là một câu chuyện trong cuốn hồi ký Tự do đến cực đoan của Roderic Anderson. Ông cho biết vào những năm 1940, ý tưởng phân biệt về quan hệ đồng giới nam (gay) hãy còn sơ khai nhưng là trái pháp luật ở Úc và trong quân đội, quan hệ tình dục qua đường hậu môn là tội đáng bị tù chung thân. Nên mới có ai đó "Suỵt!" khi những người lính thèm khát sex với các ngôi sao điện ảnh, trước khi họ tìm nhau để thỏa mãn sinh lý.
Sự im lặng tuyệt đối về chuyện quan hệ đồng tính thời chiến được những người lính giữ kín.
Bị "méc" vì tội "quan hệ bừa bãi"
Hai nhà nghiên cứu Yorick Smaal và Graham Willett từ lâu đã đặt nghi vấn về nhiều vụ quan hệ đồng giới trong quân đội Úc, cho rằng thực tế còn nhiều hơn con số thừa nhận.
Họ được tìm hiểu hồ sơ mật của Cục tàng thư suốt hai năm, với sự tài trợ của Cục truyền thống của quân đội Úc và của một đại học bang California (Mỹ). Sau đó, họ kết luận đã có nhiều vụ quan hệ tình dục ở New Guinea và Borneo vào cuối năm 1943, liên quan một nhóm tự nhận là “kamp” (đàn ông).
Các tập hồ sơ gồm chuyện đời của 18 người (được giấu tên) trong số lính này.
Họ bị một thiếu tá lấy lời khai sau khi một thanh tra quốc phòng Mỹ “méc” là họ “quan hệ tình dục bừa bãi và không được phép”. Chẳng thiếu những “bữa tiệc truy hoan giữa rừng già”, thỏa mãn tình dục với súc vật và với những người lính Mỹ ở khu tắm rửa.
Nhà sử học Smaal cho biết: 18 người lính Úc thường “thỏa thuận” với các “kamp” người Mỹ từ quán bar của Hội Chữ thập đỏ. Thường ở các “bữa tiệc” này có 15 lính Mỹ và 6 “em” Úc, và chuyện phổ biến là các lính Úc mỗi đêm phải có nhiều người tình để tất cả các “anh” đều sướng.
Ông nói vai “em” Úc ở New Guinea là do quan niệm thời đó về đồng tính tính. Theo tay thanh tra Mỹ “méc” các quan chức quốc phòng Úc, “em” dùng để chỉ những tay lính “diễn vai nữ trong mối quan hệ đồng tính”. Nhưng ông cũng nói nhiều tay lính Úc cũng “bụp” được các “em” Mỹ.
Còn Gore Vidal-một cựu binh hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương và là một cây bút-từng nói “lính Úc nổi tiếng ngoan ngoãn để bụng thỏng đất cho các “kamp” thỏa mãn cái sự sung sướng”.
Hai nhà sử học Smaal và Willett đã ráp nối các câu chuyện từ những tiểu thuyết, nhật ký, hồi ký, truyện truyền miệng cùng các báo cáo chính thức, để kết luận đã có những cuộc giải quyết sinh lý giữa các “kamp” với nhau vì họ bị thiếu đàn bà.
Và người có chất nam tính nhiều hơn có thể quan hệ sex với các “em” mà không mất phẩm chất đàn ông.
Bức tranh "lính tắm" vẽ năm 1945, treo trong bảo tàng kỷ niệm chiến tranh của Úc |
Đó là các chứng cứ lần đầu tiên quân đội Úc phải xử lý vấn đề người lính quan hệ đồng giới ở chiến trường vi phạm quân lệnh.
Willett đang là giảng viên cấp cao của Đại học Melbourne, ngờ rằng những người lính chịu kể chi tiết cuộc sống của họ để được xuất ngũ với lý do “yếu sức khỏe”, thay vì mang tiếng bị kỷ luật đuổi khỏi quân đội (mức kỷ luật này là một sự sỉ nhục).
Cuốn sách mới in Cuộc sống tình dục của người Úc: một lịch sử” của nhà sử học Frank Bongiorno nêu: có rất nhiều vụ quan hệ đồng giới trong quân đội, hơn là trong báo cáo chính thức, vì khi bị phát hiện, thường vụ việc được xử lý êm”.
Ông Smaal nói vụ thanh tra Mỹ phát hiện những “cuộc tiệc truy hoan” này là trò “săn phù thủy”.
Khi ấy, chỉ huy quân Úc ở New Guinea phải báo cáo về Melbourne, đề nghị hướng xử lý. Các quan chức Bộ Quốc phòng Úc (ADF) mất hàng tháng trời bàn cách giải quyết, không biết nên vận dụng luật cấm hay là chọn lý do “yếu sức khỏe”. Cuối cùng họ chọn lý do này.
Mãi đến năm 1992, Thủ tướng Úc lúc đó là ông Paul Keating mới ban hành hủy lệnh cấm người đồng tính trong ADF.
Tướng David Hurley vào dịp kỷ niệm 20 năm ngày hủy lệnh cấm đã nói đó là một quyết định thể hiện tính đa bản sắc của quân đội, tạo điều kiện cho mọi quân nhân thụ hưởng các điều kiện ưu tiên mà không xét giới tính và cuộc sống tính dục của họ.
Bảo Vĩnh (theo Sydney Morning Herald)