2 bệnh nhân đầu tiên sử dụng kỹ thuật ICG điều trị ung thư đại trực tràng
Thông tin Y học - Ngày đăng : 18:54, 21/07/2016
Ngày 21.7, Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM cho hay sẽ có 2 bệnh nhân mắc bệnh ung đại trực tràng được ứng dụng kỹ thuật ICG để điều trị căn bệnh này. Trong đó có 1 bệnh nhân nữmắc bệnh ung thư đại trực tràng giai đoạnIIB, còn 1 bệnh nhân nam đã ở vào giai đoạn cuối.
Bệnh nhân nữ là chị Nguyễn Thị V. (39 tuổi, quê Tiền Giang) nhập viện vì đi cầu ra máu 2 tuần. Người bệnh được khám, nội soi đại trực tràng, làm MRI và được chẩn đoán bị ung thư trực tràng giai đoạn IIB. Trong khi đó, bệnh nhân nam là anh Trần Trung C.(35 tuổi, quê Long An) nhập viện vì táo bón, sụt cân 10kg trong 2 tháng, đau âm ỉ bụng bên trái. Người bệnh được khám, nội soi đại trực tràng, làm MRI và được chẩn đoán ung thư đại tràng chậu hông di căn gan đa ổ.
Bác sĩ Nguyễn Hữu Thịnh, Trưởng phòng Khoa học Đào tạo, Bệnh viện Đại học Ydược nhận định với việc ứng dụng kỹ thuật ICG, bệnh nhân V. tiên lượng tốt, tỷ lệ sống trên 5 năm từ 70 -80%. Riêng đối với bệnh nhân C. đã ở vào giai đoạn cuối, các bác sĩ sẽ cắt đại tràng chậu hông và nạo hạch dưới sự hướng dẫn của ICG, khả năng sống trên 5 năm của bệnh nhân này là khoảng30% đến 40%.
“Vấn đề nguy hiểm của ung thư là di căn, tế bào tách rời di chuyển đến những nơi khácsinhnở. Phần lớn các tế bào di căn đều tập trung vào hạch bạch nênkhi áp dụng ICGsẽ hiện lên những hạch bạch rất rõ, giúp các phẫu thuật viên nhìn thấy hết những tế bào ung thư ở đây để có thể nạo một cách triệt để, tăng khả năng khỏi bệnh và giảm tỷ lệ tái phát đối với người bệnh ung thư đại trực tràng. Chi phí phẫu thuật khi áp dụng ICG thayđổi không đáng kể. Ngoài ung thư đại trực tràng, ICG còn được áp dụng trong các bệnh lý như ung thư vú, ung thưda, ung thư dạ dày…”, bác sĩ Thịnh cho biết.
Theo bác sĩ Thịnh, ung thư đại trực tràng là bệnh ác tính đường tiêu hóa thường gặp ở hầu hết các nước trên thế giới. Trong các bệnh ung thư, ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ ba ở nam giới và thứ hai ở nữ giới. Nguy cơ mắc phải ung thư đại trực tràng trong suốt đời mỗi người được ước tính khoảng 1/20. Ung thư đại trực tràng là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ ba trong các loại ung thư.
Ở các nước phát triển, tần suất ung thư đại trực tràng giảm dần từ 2,1 - 2,8% mỗi năm. Nguyên nhân của việc giảm này có thể do hiệu quả của những chương trình tầm soát ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, tần suất ung thư đại trực tràng đang ngày càng gia tăng ở các nước đang phát triển.
Hiện nay tại Việt Nam số lượng ung thư đại trực tràng đang gia tăng đáng kể so với 10 năm trước. Chỉ tính riêng tại Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM mỗi năm tiếp nhận điều trị khoảng 500-700 trường hợp ung thư đại trực tràng. Hầu hết người bệnh đều ở giai đoạn muộn (giai đoạn III - IV), số người bệnh ở giai đoạn sớm thường ít gặp. Tỷ lệ khỏi bệnh của ung thư giai đoạn sớm là trên 95%, ung thư có triệu chứng khoảng 50% và ung thư di căn xa là dưới 5%.
Phân tích của bác sĩ Thịnh cho thấy, bệnh ung thư đại trực tràng giai đoạn sớm hầu như không có triệu chứng và thường được phát hiện thông qua các chương trình tầm soát ung thư.Ở giai đoạn trễ hơn, người bệnh ung thư đại trực tràng thường có các biểu hiện như tiêu ra máu, thay đổi thói quen đi tiêu (tiêu phân lỏng xen kẽ táo bón), thay đổi hình dạng khối phân, mót rặn, đau bụng và thiếu máu... Tuy nhiên, các triệu chứng trên có thể gặp ở các bệnh lý khác. Nếu người bệnh đến trễ, có thể gặp các biến chứng như tắc ruột, chảy máu tiêu hóa, thủng u.
Hồ Quang