Nếu không có Trần Tự Khánh quyết đoán mưu cao thì nước Việt hồi thế kỷ 13 có thể rơi vào vòng xoáy nội chiến rồi làm mồi cho ngoại bang xâm lược.
Năm 1214, sau khi bất thành trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của đương kim hoàng thượng Lý Huệ Tông thì Tự Khánh đã dựng con vua Lý Anh Tông là Huệ Văn vương (tức chú của Lý Huệ Tông) lên ngôi. Nước cờ lập Huệ Văn vương lên ngôi vua là cách để Tự Khánh tạo chính danh cho mình, để người trong nước khỏi coi ông là phản loạn. Đây chính là kiểu mà kẻ khởi loạn trước đó là Quách Bốc lập Lý Thẩm (anh của Lý Huệ Tông) lên ngôi để đấu lại với Lý Huệ Tông.
Việc một nước có 2 vua thì sẽ dẫn đến loạn lạc lâu dài. Bài học có thể thấy từ việc khá giống bên Trung Quốc khi Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu bất mãn với sự kìm kẹp của quyền thần Cao Hoan đã chạy sang địa bàn của sứ quân Vũ Văn Thái. Cao Hoan thấy vậy bèn lập người em họ của Nguyên Tu là Nguyên Thiện Kiến lên ngôi, sử gọi là Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế. Miền bắc Trung Quốc đầu thế kỷ thứ 6 bị phân liệt thành Đông Ngụy của Nguyên Thiện Kiến và Tây Ngụy của vua cũ Nguyên Tu, rồi Đông Ngụy thành Bắc Tề, Tây Ngụy thành Bắc Chu. Rốt cuộc phải đến năm 581 thì Tùy Văn Đế mới thống nhất lại được. Quá trình thống nhất như vậy phải trả giá bằng rất nhiều xương máu của người dân.
Lịch sử Việt Nam sau này cũng có giai đoạn phân liệt như vậy. Đầu thế kỷ 16, khi Mạc Đăng Dung trở thành quyền thần, lấn át ngôi vua thì Lê Chiêu Tông không chịu nổi. Sử chép: "Năm 1522, Chiêu Tông chạy ra huyện Minh Nghĩa ở Sơn Tây (vùng đất nay thuộc tỉnh Hà Tây), lúc đó ông mưu ngầm với bọn Phạm Hiến, Phạm Thứ, sai người đem mật chiếu vào Tây Kinh bảo Trịnh Tuy nghênh viện. Hôm sau Đăng Dung nghe tin, cho người đuổi theo nhưng Chiêu Tông quyết chống lại, chạy vào thành Tây Kinh. Trong kinh thành, Mạc Đăng Dung cùng Thái sư Lượng quốc công Lê Phụ và các công hầu lập em của Chiêu Tông là Lê Xuân lên ngôi".
Dù sau Lê Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung bắt và sát hại thì cái nền móng ông gây dựng vẫn được các cựu thần nhà Lê phát huy. Nước Việt từ đó bị rơi vào vòng xoáy nội chiến Lê - Mạc rồi Đàng Ngoài - Đàng Trong khiến máu đổ, khổ đau không ít cho đến khi vua Gia Long Nguyễn Ánh thống nhất đất nước thông suốt từ Nam ra Bắc.
Quay trở lại bối cảnh của Trần Tự Khánh thời điểm lập Huệ Văn vương làm vua. Nếu tình trạng đất nước 2 vua cùng việc các sứ quân nhao nhao nổi lên như nhà Bắc Giang vương Nguyễn Nộn, Hiền Tín vương Lý Bát, Hồng hầu Đoàn Văn Lôi, Hà Cao ở Quy Hóa thì mảnh đất Việt Nam nhỏ bé khi ấy sao tránh khỏi cảnh máu thành sông, xương trắng đồng. Nguy hiểm nhất là nếu không kịp thống nhất để tạo thành một khối vững mạnh thì chẳng mấy chốc làm mồi ngon cho vó ngựa phương Bắc. Nhưng rất may, Trần Tự Khánh có những quyết định rất sáng suốt với các nước cờ cao tay để nhanh chóng thống nhất đất nước.
Trần Tự Khánh vừa đánh dọa Lý Huệ Tông nhưng lại vừa chìa tay để tỏ ý đón vua về. Hành động có tính biểu tượng cao nhất của Trần Tự Khánh là việc vào tháng 11.1215, đem trả vua cái mũ bình thiên. Mũ bình thiên là mũ chỉ vua được dùng và Khánh lấy được nó trong một lần đánh vào cung. Hành động này ngầm cho nhà vua hiểu Khánh vẫn coi Huệ Tông là vua. Đến Tháng giêng năm 1216, Huệ Tông cùng với Đàm Thái Hậu ngự ở thảo điện để thị triều. Trần Tự Khánh trả lại cái ghế bằng vàng. Hành động này có tính chất biểu tượng hệt như việc trả mũ bình thiên. Thông điệp của Khánh rõ ràng khi lặp lại 2 lần và vua Huệ Tông bắt đầu nghĩ đến chuyện hợp tác.
Và một hành động cực kỳ quyết đoán của Tự Khánh để làm yên lòng Huệ Tông khi ấy là phế vua Huệ Văn vương từng được Khánh dựng 2 năm trước. Tự Khánh coi như bỏ quân bài quan trọng để giữ chính danh cho mình trong 2 năm để đổi lấy lòng tin của Huệ Tông. Có lẽ thông tin "tình báo" từ cô em Trần Thị Dung đang làm hoàng hậu của Huệ Tông đã giúp Tự Khánh đi nước cờ mạo hiểm này và thành công.
Vua Huệ Tông làm thêm một phép thử nữa là vào tháng 5.1216 sai sứ xin binh của Trần Tự Khánh để đánh Đỗ Nhuế. Trần Tự khánh phụng chiếu của Huệ Tông ngay và cách. Đỗ Nhuế chạy về với Nguyễn Nộn.
Sau khi nhận những tín vật quan trọng và thấy sức mạnh của quân đội nhà Trần thì Lý Huệ Tông có ý trở về nương náu với nhà Trần. Thêm một lý do nữa để Lý Huệ Tông quyết tâm sang nhờ ông anh vợ Trần Tự Khánh là thúc ép của Trần Thị Dung. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: "Thấy Tự Khánh là người phản trắc, Thái hậu nhiều lần chỉ vạch phu nhân là bè đảng của giặc, khuyên nhà vua ruồng bỏ, nhưng nhà vua không nghe. Thái hậu bắt phu nhân phải tự sát, nhưng nhà vua ngăn cản lại. Thái hậu lại bỏ thuốc độc vào các món ăn, thức uống của phu nhân. Cứ mỗi bữa ăn, nhà vua lại chia sẻ cho phu nhân một nửa và cho cùng ở chung, chứ không để rời khỏi bên mình. Rồi đang đêm, nhà vua cùng với phu nhân vi hành lén đi"
Đại Việt sử lược ghi chép rõ hơn cảnh Tự Khánh đón vua: "Ngày Giáp Thìn (tháng 5.1216), nhà vua cùng với phu nhân là Trần thị, ban đêm sang trại quân Thuận Lưu để theo về với Trần Khánh. Ngày hôm sau nhà vua gặp viên tướng của ngài là Vương Lê đem thuyền đến đón. Lúc bấy giờ Thái hậu và con của nhà vua là Công chúa đều lẫn tránh ở Ô Kim. Trần Tự Khánh thấy nhà vua thì mừng rỡ lắm. Các tướng sĩ đều đánh trống, nhảy múa hoan hô nhà vua".
Sau khi có được Huệ Tông, thế lực nhà Trần đã có danh chính ngôn thuận để đánh bại các thế lực cát cứ khác. Tự Khánh cùng Thượng tướng quân Phan Lân chỉnh đốn lại quân triều đình, rèn đúc vũ khí, huấn luyện sĩ tốt, khí thế quân đội lên cao, phấn chấn đi đánh phản loạn. Tình hình quanh kinh thành đã tạm yên, Tự Khánh rước vua Huệ Tông về thành Thăng Long.
Tháng 6.1217, Đoàn Thượng đem lực lượng ra hàng, được phong tước vương. Tháng 6.1218, Trần Thừa và Trần Tự Khánh gả em gái là Trần Thị Tam Nương cho Đoàn Văn Lôi (tước Hồng Hầu) thu phục đất Hồng Châu và hôn sự này đã loại trừ được một thế lực cát cứ lớn nhất là họ Đoàn. Tự Khánh chuyển sang đánh Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, quân Nộn thua to. Năm sau các tướng của Nộn đều ra hàng.
Tự Khánh đánh dẹp, thu phục lực lượng cát cứ ở Quốc Oai, Cam Giá. Các thuộc ấp ở Phong Châu đều ra hàng. Nguyễn Bát (Hiền Tín vương) ở Từ Liêm (Hà Nội ngày nay) phải bỏ chạy lên vùng thiểu số An Lạc (tỉnh Vĩnh Phúc). Hà Cao ở Quy Hóa không chạy thoát, Cao cùng vợ con thắt cổ chết. Đến tháng 5.1220, chấm dứt hoàn toàn nạn cát cứ ở các địa phương. Đất nước trở lại yên bình.
Đã có người so sánh Tự Khánh giống như Tào Tháo mượn danh nhà Hán để đi đánh bại các thế lực cát cứ mạnh như Viên Thiệu, Viên Thuật, Lã Bố, Mã Đằng, Trương Lỗ... để đặt nền móng cho việc hình thành nhà Ngụy sau này. Nhưng Tự Khánh còn giỏi hơn Tào Tháo ở chỗ là đã thống nhất được nước Việt chứ Tào Tháo cuối đời vẫn không làm gì được Lưu Bị, Tôn Quyền. Và quan trọng hơn là nhờ Tự Khánh thống nhất được đất nước từ 1220 mà nhà Trần có thời gian nuôi sức dân, hàn gắn lòng người để có sức mạnh đối chọi với vó ngựa Nguyên Mông sau này.
Chỉ có điều, tại sao con cháu trực hệ của Trần Tự Khánh không được bước tiếp vào vũ đài lịch sử là điều sẽ được tiếp tục phân tích.
Anh Tú
Đọc thêm:
Nhà Lý mất nước vì nạn thái hậu tham nhũng quyền lực
Trần Thủ Độ dẹp nạn thái hậu tham nhũng quyền lực
Nhà Trần chống ngoại thích bằng hôn nhân cận huyết mà vẫn sơ hở
Số phận buồn đau của 2 hoàng hậu ngoại tộc khiến nhà Trần mất ngôi
Các vua Trần cưới chị em họ để hóa giải mối oan tình
Giải mã việc vua nhà Trần cưới chị em họ nhưng con cháu vẫn thông minh