Nhân Ngày chè thế giới, như đề xuất của Tổ chức Lương nông Liên Hợp Quốc (FAO) lấy ngày 21.5 hằng năm là Ngày chè của nhân loại, tôi xin có mấy dòng về chè (trà) và cây chè Việt Nam.
Rất cảm ơn TS Trịnh Quang Dũng, chuyên gia hàng đầu nhiều năm về năng lượng và điện mặt trời tại Việt Nam và quốc tế. Là chuyên gia công nghệ điện mặt trời nhưng anh Dũng đã nghiên cứu rất sâu về cây chè Việt để viết và xuất bản cuốn sách khá hay, khá nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả nước ngoài. Cuốn Văn minh trà Việt. Mặc dù còn những tranh luận, những cứ liệu, các quan điểm chưa nhất quán trong giới sử học, công nghệ, dịch thuật… song cuốn sách này là tư liệu rất quý về cây chè Việt. Như một sự khẳng định người Bách Việt đã phát hiện ra cây chè và cách uống trà của nhân loại. Cảm ơn anh! Tôi đang chờ anh viết tiếp cho bạn đọc biết về trà olong (từng xuất hiện ở Việt Nam từ thế kỷ 19 như sách của cụ Đặng Văn Thứ đã ghi nhận) cũng như việc du nhập và phát triển loại trà này trong thời kỳ đất nước đổi mới.
Trong nhiều nghiên cứu, cũng như sách báo còn lưu truyền và ngay trong cuốn Văn minh trà Việt, người ta đã chứng minh rằng người Việt đã tìm thấy trong cuộc mưu sinh của mình cây lúa nước và cây chè rồi thuần hóa gây trồng từ lúc còn hoang dã trước công nguyên. Khổng Tử đã từng viết: Dân Bách Việt (tổ tiên của người Việt xưa) đã ăn một thứ hạt gọi là gạo và uống một thứ nước từ lá cây chè, từ 555 năm trước công nguyên. Theo tài liệu khảo cổ học, tại một hang động trong rừng Tây Nghệ An nơi có dấu tích người nguyên thủy, có các hạt quả chè hóa thạch. Dùng phương pháp đồng vị phóng xạ carbon 14 người ta đã tính được tuổi của các mẫu vật này khoảng 13.500 năm trước. Các vùng núi Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang… còn khá nhiều quần thể những cây chè cổ thụ nhiều trăm năm tuổi. Trong các sách cổ cũng không ít trang nói về cây chè và uống trà của người Việt xưa. Bức tranh cổ Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ vẽ cảnh Vua Trần Nhân Tông kinh lý khu Tràng An Ninh Bình trước khi xuất giá tu hành hơn 700 năm trước có cảnh trong đoàn võng lọng tùy tùng, gia nhân bưng khay trà theo hầu ngài. Rồi biết bao bài thơ hay về cây chè và tác dụng của uống chè/trà buổi sáng nâng cao sức khỏe và văn hóa ẩm thực của Việt Nam ta. Chẳng hạn bài thơ của cụ danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác: Bán dạ tam bôi tửu/Bình minh nhất tản trà/Nhất nhật cứ như thử/Lương y bất đáo gia. Dịch: Buổi tối ba chén rượu/Sáng ra uống chén trà/Ngày nào cũng như thế/Thày thuốc không đến nhà. Cổ nhân có câu: “Nhất thiết chư sự tại ư trà” (mọi thứ mọi việc đều ở trà).
Văn hóa uống trà của người Việt cũng thật đa dạng. Theo thời gian, theo vùng miền, theo lứa tuổi và cả theo thời đại nữa. Với những người hâm mộ trà, thích uống trà hồi thời bao cấp, thời chiến tranh như chúng tôi, sở thích là chén trà Thái Nguyên móc câu đặc “cắm tăm” (đặc tới mức cắm que tăm vào cũng không ngả), chát ngọt hậu. Trà ấy, đi kèm miếng kẹo lạc, kẹo dồi thì nhất hạng. Ngày nay ở các góc phố, hè phố cổ Hà Nội vẫn còn thú ấy. Không gian hẹp, bà bán chè chén cũ kỹ nhưng đủ thứ chuyện trên trời dưới biển, chuyện đời xung quanh ấm trà.
Người Hà Nội - Tràng An thanh lịch xưa có thú trà ẩm riêng là uống trà ướp hương hoa, được xem như một thứ văn hóa. Người ta hay nhắc tới trà ướp hương sen hồ Tây rất đặc biệt, tinh tế, dường như thâu tóm hạt sương sớm, gió lộng Tây Hồ cả vào hương vị của chén trà sen. Người xứ Huế cố đô bao triều đại nhà Nguyễn thì nghiện, say mê trà Cung đình. Người Sài Gòn hiện đại suốt bao năm vẫn uống trà đá, cũng như hầu hết dân Nam Bộ thường uống trà đá trong hoặc sau bữa ăn. Giới trẻ thời @ - 4.0 công nghệ số lại ghiền trà sữa. Trà túi lọc nhiều thương hiệu nổi tiếng thế giới đã vào đất Việt.
Các vùng quê Bắc Bộ, Trung Bộ bao đời nay vẫn uống chè xanh/chè tươi. Vườn dù có hẹp nhưng hầu như nhà nào cũng trồng vạt chè xanh. Hằng ngày người trong nhà nhắc nhau nấu nồi nước, ấm nước chè xanh mới hái tại vườn. Bát nước chè xanh đặc, thơm, mát, bổ dưỡng đi cùng củ khoai củ sắn đồng quê, trong câu chuyện râm ran tình làng nghĩa xóm, tình cha mẹ vợ chồng anh chị em… Miếng trầu, bát chè xanh trong không khí gia đình, họ mạc, xóm làng, dường như chỉ có Việt Nam mới có. Tôi vẫn nhớ như in mẹ tôi vẫn sai anh em tôi hái chè để chờ phiên chợ Quán, chợ Lê, chợ Chòm, chợ Sinh Dược… để bán. Quê tôi bán chè đong đếm bằng nón. Lạ lắm, thương lắm, yêu lắm chè quê.
Đã nói đến chè thì không thể nhấn tới những vùng chè Thái Nguyên, Phú Thọ, Hà Giang, những trà móc câu, trà một búp… ngon đặc biệt: nước xanh trong thơm chát đậm, ngọt man mác sau khi uống. Thứ chè đặc sản ấy đã được gói vào mấy chữ tổng kết gọn gàng: nước xanh - cánh nhỏ - hương thơm - vị đượm.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc 1954, nhất là sau ngày đất nước thống nhất 1975, ngành chè Việt Nam đã dần phục hồi và phát triển. Các nông trường quốc doanh, hợp tác xã và vườn chè trên đất 5% đã được mở mang. Vào thời bao cấp khó khăn, sản phẩm chè đen đã trở thành hàng hóa đối lưu trong các hiệp định thương mại khối SEV. Nhiều vùng chè lớn ra đời. Miền Bắc với Thái Nguyên, Phú Thọ, Lai Châu, Hà Giang… Ở nhiều vùng núi Trung Bộ, người dân trồng chè, sao, sấy chè. Ở miền Nam là vùng chè/trà nổi tiếng Bảo Lộc, Lạc Dương với quy mô lớn nhất đất nước, khoảng 15.000ha. Thương hiệu trà B’Lao nổi tiếng có từ năm 1939 lại gây ấn tượng trong ngành chè.
Trà olong Đài Loan du nhập vào nước ta từ thập niên 90 thế kỷ trước, phát triển mạnh ở vùng chè Lâm Đồng và Tây Nguyên, với diện tích khoảng 5.000ha, được coi là lớn nhất nước. Năm 1992 Công ty trà Đài Loan với sự kết nối của anh Toàn - Tổng giám đốc Công ty Thực phẩm Cầu Tre (TP.HCM) và tôi, lập trang trại trà olong đầu tiên tại khu Sùng Đức, TP.Gia Nghĩa, từ cách ban đầu bằng chậu cảnh chè olong bonsai, rồi phát triển phương pháp ươm hom chè một lá vào nước ta.
Gần đây tỉnh Thái Nguyên thường tổ chức lễ hội Trà Thái Nguyên - Festival Chè, cũng là nét mới để quảng bá chè. Cũng đã có khá nhiều công ty, hợp tác xã hoặc cá nhân tạo dựng thương hiệu trà của mình, được người tiêu dùng tín nhiệm, ưa thích. Ngày càng có nhiều tín hiệu vui cho cây chè, người trồng chè và ngành chè.
Theo Hiệp hội Chè Việt Nam và Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn, cả nước hiện có 34 tỉnh trồng và chế biến chè/trà. Tập trung nhiều nhất là vùng núi, trung du phía bắc chiếm 70% của cả nước, khu vực Tây Nguyên khoảng 19%, còn lại là các vùng sinh thái khác. Tổng diện tích chè hiện đã bị thu hẹp hơn trước, chỉ còn 123.000ha, trong đó Thái Nguyên 22.300ha, Hà Giang 21.500ha, Phú Thọ 16.100ha, Lâm Đồng 10. 800ha. Tổng sản lượng chè đạt 1,02 triệu tấn chè búp tươi/năm. Năng suất chè búp tươi vẫn chỉ 9,5 tấn/ha/năm. Việt Nam có tới 170 giống chè. Trên thế giới, nước ta là quốc gia xuất khẩu chè đứng thứ 5 và sản xuất chè đứng thứ 7. Hiện có 74 nước nhập khẩu chè của Việt Nam. Tuy nhiên xuất khẩu chè năm 2020 mới chỉ đạt mức gần 135.000 tấn với kim ngạch 217,7 triệu USD. So với tiềm năng và thực tế thì quá khiêm tốn. Ngành chè, cây chè và người làm chè vẫn chưa giàu lên nhờ chè. Các cây trồng khác đang dần thay thế, lấn đất cây chè.
Trong khi đó, ở nhiều nước người ta thành công với trồng, chế biến, tiêu thụ sản phẩm từ cây chè. Người Nhật, người Đài Loan có nhiều vùng chè thâm canh hữu cơ, chè đặc sản với bao nhiêu loại sản phẩm từ lá, búp chè non. Uống chè/trà đã được nâng lên và cách điệu thành Trà đạo. Ngoài chè uống, còn có kem trà, bánh trà, lẩu chè, canh chè, kẹo trà… Các hãng trà túi lọc của Anh, Ấn Độ, Mỹ, Nga… đều có doanh thu lớn, hàng trăm triệu, thậm chí cả tỉ USD/năm.
Lợi thế và dư địa ngành chè còn quá lớn. Chè là tiềm năng, tài nguyên nông sản của nước ta. Có lẽ chúng ta phải nhìn lại, cơ cấu lại toàn bộ chuỗi cung ứng cây chè Việt, bằng việc xác định vai trò, vị trí của cây chè. Chọn giống tốt, dùng các biện pháp thâm canh chè sạch, chè hữu cơ, chè đặc sản, tái cơ cấu giống cho các vùng chuyên canh, trong đó có ưu tiên quan tâm tới chè olong, chè shan tuyết. Khâu chế biến cần được thay đổi để có chè sạch, chất lượng cao. Căn cứ vào nhu cầu thị trường trong nước và nước ngoài với các “gu” uống thưởng thức khác nhau, thậm chí khó tính để có các sản phẩm phù hợp. Từ sản phẩm mà tiếp nhận công nghệ, thiết bị khác nhau tương thích. Phải đa dạng hóa sản phẩm. Phải có chiến lược marketing, PR cho chè, cho trà Việt. Phải xây dựng lại và làm mới các thương hiệu trà Việt. Đẩy mạnh tuyên truyền về tác dụng với sức khỏe và dược tính chữa bệnh của chè...
Những việc hệ trọng ấy không phải chỉ của người làm chè, buôn bán chè mà của cả các cơ quan nhà nước, khoa học công nghệ, công thương, nông nghiệp, và của cả giới truyền thông. Phải xây dựng chương trình duy trì, phát triển ngành chè và khát vọng kim ngạch xuất khẩu đạt 500 triệu USD, dần dà lên mức 1 tỉ USD. Thị trường trong nước cũng phải đạt doanh thu tương ứng. Để cây chè xứng đáng với lịch sử tồn tại, phát triển nhiều thế kỷ của nó, có chỗ đứng vững chắc trong đời sống.
TS Nguyễn Văn Lạng - nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Đắc Lắk