Cho rằng lãi suất tiền gửi VND cho kỳ hạn ngắn hạn và trung hạn đang ở mức từ 3,5% - 6,2%/năm là rất cao, VAFI đề xuất một số giải pháp để dần lãi suất tiền gửi về mức 0%/năm.
Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) vừa có kiến nghị liên quan đến lãi suất tiền gửi.
Lãi suất cao hơn nhiều nước
VAFI cho rằng, hiện nay các nước Âu – Mỹ, các nước Đông Âu chuyển đổi sang kinh tế thị trường, các nền kinh tế phát triển đều có mức lãi suất tiền gửi nội tệ, ngoại tệ 0%/năm. Thậm chí một số nước còn duy trì lãi suất âm (thu phí tiền gửi) nhằm bảo đảm lãi suất cho vay cực thấp (2%- 5% tùy thuộc đối tượng vay và thời hạn vay) nhằm kích thích hệ thống doanh nghiệp và thị trường chứng khoán phát triển, đảm bảo an sinh xã hội cho người thu nhập thấp và trung bình mua nhà ở và chi tiêu tiêu dùng có lãi suất tín dụng cực thấp.
Các nước trong khối ASEAN như Thái Lan, Philipine, Malaysia, Singapore cũng đang có lãi suất tiền gửi ngắn hạn cho đồng nội tệ ở mức 0%, lãi suất tiền gửi dài hạn trong khoảng từ 0,2%-0,7%/năm.
Còn với nước ta, tiền gửi VND cho kỳ hạn ngắn hạn và trung hạn đang ở mức từ 3,5% - 6,2%/năm là rất cao so với các nước nói trên và dẫn đến lãi suất cho vay cũng cao hơn, trở thành bất lợi lớn cho cộng đồng doanh nghiệp cũng như đông đảo người tiêu dùng thuộc đối tượng thu nhập thấp và trung bình.
Theo VAFI, nền kinh tế Việt Nam đã có những tiền đề vững chắc như các nước trong khu vực để có thể thực hiện đưa dần lãi suất tiền gửi về mức 0%/năm như: Chính trị ổn định; nền kinh tế đã, đang và tiếp tục phát triển với tốc độ cao hơn các nước trong khu vực và các nước Âu Mỹ; xuất khẩu đã, đang và tiếp tục tăng trưởng ở mức 2 con số, đã ở vị thế là quốc gia xuất siêu và hàng năm thu được nguồn ngoại tệ rất lớn nhờ xuất khẩu liên tục tăng trưởng.
Ngoài ra, hàng năm có lượng kiều hối lớn hàng chục tỉ đô la gửi về. Nếu dịch COVID-19 được khống chế thì ngành du lịch tiếp tục phát triển nhanh và hàng năm thu về hàng chục tỉ đô la; dự trữ ngoại tệ tại NHNN tiếp tục tăng mạnh.
Hơn nữa, thị trường chứng khoán phát triển mạnh trong thời gian qua, bất chấp dịch COVID–19; thị trường trái phiếu cũng phát triển nhanh và đang từng bước thu hút các nhà đầu tư cá nhân tham gia; Hệ thống ngân hàng nội địa đã vững mạnh hơn trước rất nhiều; một số ngân hàng yếu kém đã bị giải thể hoặc sáp nhập…
Lý giải cho việc lãi suất tiền gửi và cho vay tại Việt Nam vẫn còn rất cao so với các nước trong khu vực và khó có thể hạ nhanh lãi suất tiết kiệm, VAFI cho rằng nguyên nhân cơ bản là Việt Nam chưa có được hệ thống giải pháp kiểm soát dòng tiền tiết kiệm và dòng tiền nhàn rỗi, để hướng nó vào các kênh đầu tư có lợi cho nền kinh tế, đồng thời ngăn chặn nó chảy vào các kênh không có lợi như bất động sản hay ngoại tệ.
Cũng theo hiệp hội này, thời gian qua Ngân hàng Nhà nước đã có giải pháp để hạ thấp lãi suất tiền gửi tiết kiệm so với trước kia, làm cho tiền gửi không còn hấp dẫn như trước và dòng tiền khổng lồ đã đổ vào thị trường chứng khoán.
Trong lúc khó khăn do dịch COID-19 nhưng thị trường chứng khoán lại phát triển đã giúp cho hệ thống ngân hàng và cộng đồng doanh nghiệp trong nước tồn tại, phát triển và thêm nhiều khả năng chống chọi với những khó khăn mới.
Tuy nhiên, VAFI cho rằng mặt hạn chế của giải pháp này là xuất hiện một dòng tiền nhàn rỗi khổng lồ đổ vào thị trường bất động sản, đẩy giá đất tăng mạnh và nguy cơ khó khăn cho phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời tác động mạng đến an sinh xã hội khi hàng triệu người lao động khó có khả năng mua được ngôi nhà cho mình.
Theo đó, mặt không tích cực này sẽ cản trở mạnh khả năng hạ lãi suất tiền gửi và dư địa hạ thấp lãi suất không nhiều.
Hạn chế dòng tiền đầu cơ vào bất động sản
VAFI đề xuất một số giải pháp để dần lãi suất tiền gửi về mức 0%/năm như: Xây dựng Luật Thuế tài sản theo hướng hạn chế mạnh dòng tiền đầu cơ chảy vào thị trường bất động sản.
Đồng thời kiểm soát để không cho tăng giá đất, áp dụng thu thuế tài sản lũy tiến từ căn nhà thứ hai trở đi với phương châm ban đầu có thể ở mức thấp đủ để ngăn ngừa dòng tiền đầu cơ sau đó tăng dần như thông lệ các nước.
VAFI cho rằng, giải pháp này là điều kiện tiên quyết để hạ nhanh lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
Giải pháp tiếp theo là hướng mạnh dòng tiền nhàn rỗi chảy mạnh vào thị trường trái phiếu với lãi suất huy động thấp, ở mức dưới 2 %/năm và như vậy hệ thống ngân hàng sẽ huy động được nguồn vốn khổng lồ với kỳ hạn dài để làm cơ sở cho vay trung hạn , dài hạn với lãi suất cho vay thấp dưới mức 5%/năm.
Để làm được điều này thì cần sửa chính sách để bỏ thuế chuyển nhượng trái phiếu, thuế lợi tức trái phiếu cho các đối tượng tổ chức, cá nhân đầu tư nhằm góp phần hạ thấp lãi suất huy động.
“Tiền gửi tiết kiệm hiện nay không chịu bất kỳ khoản thuế nào nhưng tại sao đầu tư vào trái phiếu lại phải chịu thuế, trong khi huy động vốn dài hạn qua kênh trái phiếu quan trọng hơn rất nhiều so với tiền gửi tiết kiệm ở kỳ hạn ngắn?"” - VAFI nêu câu hỏi.
Theo hiệp hội này, Ngân hàng Nhà nước cần rà soát luật hiện hành để đảm bảo khi người dân đầu tư vào trái phiếu do hệ thống ngân hàng phát hành thì được bảo đảm tiền đầu tư như là tiền gửi tiết kiệm, cần thiết phải có chính sách đảm bảo này để hướng được dòng tiền nhàn rỗi vào kênh đầu tư dài hạn.
Một giải pháp nữa là khi lãi suất tiền gửi đã giảm mạnh, để phòng trường hợp một phần dòng tiền nhàn rỗi đầu cơ ngoại tệ, VAFI cho rằng, Ngân hàng nhà nước cần ban hành chính sách thu phí tiền gửi ngoại tệ ở 1 mức nhất định nhằm đảm bảo chính sách tỷ giá ổn định và không làm mất cân đối kinh tế vĩ mô…
Cũng theo VAFI, cần kiểm soát chặt thâm hụt ngân sách hàng năm. Khi qua được đại dịch COVID-19 thì tỷ lệ thâm hụt ngân sách và nợ công cần giảm dần để tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia, đủ sức đương đầu với mọi cuộc khủng hoảng có thể diễn ra trong tương lai.
Ngoài ra, hệ thống ngân hàng cần tiếp tục được củng cố theo hướng loại bỏ ngân hàng yếu kém, cải thiện cơ cấu cổ đông bằng việc tăng cường cổ đông tổ chức, cổ đông chiến lược thật sự, hạn chế dần tình trạng ngân hàng thuộc sở hữu của 1 tập đoàn và ngăn ngừa tình trạng tham nhũng trong bất kỳ ngân hàng nào.