Gió phía hồ Tây thổi về lồng lộng, dường như trong gió còn có cả mùi hương sen. Từ ngôi biệt thự có vẻ đẹp cổ kính, thấp thoáng vọng lên tiếng đàn dương cầm thánh thót bởi 10 ngón tay quý phái. Nàng đâu biết là mình đang dìu linh hồn của chàng trai học trường Abert Sarraut lên cõi địa đàng. Chàng ngây ngất chìm trong suối nguồn trong trẻo. Chàng nằm dài bên bãi cỏ ven đê, lắng nghe tiếng đàn du dưong ấy... Đó chính là chàng trai si tình Đoàn Phú Tứ
Từng ngày trôi qua, bất kể những mưa phùn hay nắng đẹp, cứ mỗi chiều chàng trai si tình Đoàn Phú Tứ lại lảng vảng từ phía ngoài biệt thự (nay số 15 phố Thụy Khuê) để cầu mong được một lần chiêm ngưỡng nhan sắc của nàng. Nhưng chàng đã thất vọng. Đêm nay, bóng tối chập chùng buông xuống. Vầng trăng nõn nà đã giăng huyền ảo tơ vàng quanh khu biệt thự và tiếng đàn vẫn ngân vang... Nàng là con gái của một nhân vật nổi tiếng nhất thời bấy giờ: Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) và cũng là chị của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp (1914 - 1938) tác giả bài thơ Chùa Hương bất tử. Nàng tên Vân, học trường đầm, dáng mảnh mai, đôi mắt bồ câu đen nhánh như thiên thần.
Mỗi chiều tan học, nàng cùng người bạn gái là Mộng Chi thong dong bước lên xe tay nhà. Tà áo tím phất phơ trong nắng nhạt, những lúc ấy chàng cũng lầm lũi theo sau...
Nhưng nói như nhà thơ Leiba (Lê Văn Bái) thì: “Người đẹp vẫn thường hay chết yểu”. Nàng Vân đã sớm nhuốm bệnh phổi và mất lúc mới 25 tuổi (1938). Khi nghe nàng ốm nặng, chàng đánh liều xin được vào thăm nhưng rất tiếc nàng đã từ chối. Trong đau đớn tột cùng, khi biết nàng vĩnh biệt trần gian, chàng đã viết một mạch trong cơn say chếnh choáng của một người mộng du:
“Sáng nay tiếng chim thanh ,
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh nữa Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Màu thời gian không xanh
Hương thời gian thanh thanh”
Viết đến đây chàng chợt sực nhớ tới tích xưa, lúc Dương Quý Phi mới vào cung, tính hay ghen tị bị Đường Minh Hoàng đưa ra một nơi. Sau nhà vua nhớ nàng quá sai Cao Lực Sĩ ra thăm. Nàng cắt tóc dâng vua. Vua trông thấy tóc thương quá lại mời nàng vào cung. Chàng lại nhớ tới chuyện xưa là có cung phi Lý phu nhân, lúc sắp mất nhất định không cho vua Hán Võ Đế xem mặt, sợ vua trông thấy nét mặt tiều tụy sẽ hết yêu. Kết hợp cả hai chuyện ấy, chàng đặt bút viết tiếp:
“Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát”
Theo lớp sóng của thời gian, từ đó, bài thơ Màu thời gian đã vĩnh cửu đi vào văn học sử Việt Nam với tên Đoàn Phú Tứ. Và để có tuyệt tác Màu thời gian không thể quên đi người thổi hồn, nguồn cảm hứng dệt nên giai phẩm này: mối tình đầu câm lặng của thi sĩ. Tên tuổi chàng được nhiều người bắt đầu biết đến - không chỉ qua thơ khi tham gia thành lập “Xuân Thu nhã tập" mà ông còn viết những vở kịch như: Những bức thư tình, Mơ hoa, Ghen, Ngã ba... Có thể ghi nhận đây là một trong những nhà viết kịch tiên phong của sân khấu nước nhà...
Và cũng như nhiều trí thức khác, sau cách mạng tháng Tám, Đoàn Phú Tứ hào hứng đi theo cách mạng, ông là đại biểu Quốc hội khóa 1 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và hoạt động sôi nổi ở lĩnh vực văn nghệ trong kháng chiến. Ngoài ra với bút danh Tuấn Đô, ông đã dịch hầu hết những tác phẩm văn học cổ điển Pháp. Ông còn là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam.
Cho đến cuối tháng 7.1951, Đoàn Phú Tứ trở về Hà Nội sống bằng nghề dạy học. Khâm phục tài năng và học thức uyên bác của ông, một cô nữ sinh đã yêu cho dù nàng kém “thầy Tứ” đến 21 tuổi! Nàng tên Nguyễn Thị Khiêm, nhà ở số 55 Lãn Ông, sinh trưởng trong gia đình gia giáo nghiêm khắc, từ năm 15 tuổi (1946) nàng đã làm liên lạc cho các lực lượng chiến đấu ở Liên khu 1, rồi cho Trung đoàn Thủ đô, tiếp đó làm công tác giao liên, tuyên truyền cho Ủy ban kháng chiến khu 11 Hà Nội. Mối tình này chắc chắn bị gia đình ngăn cấm nhưng với cá tính mạnh mẽ, nàng tuyên bố: “Không cho cưới sẽ tự sát!”. Sự quyết liệt của người con gái càng khiến sự cảm mến lẫn cảm phục dâng lên trong lòng thi sĩ. Cuối cùng, trời không chịu đất, thì đất phải chịu trời, rốt cuộc, gia đình cô Khiêm đành phải chấp nhận chàng rể. Hôn lễ của hai người đã diễn ra vào ngày 16.8.1952 tại Hà Nội giản dị, đầm ấm với những người bạn văn thực sự gắn bó, gần gũi.
Theo Hôn nhân & pháp luật