Theo Thông tư 21, các cơ sở khám, chữa bệnh xây dựng hồ sơ phương án giá theo phương pháp chi phí giữ nguyên cơ cấu giá và định mức đã ban hành, chỉ điều chỉnh yếu tố mức lương cơ sở từ 1,8 triệu đồng lên 2,34 triệu đồng.
Liên quan đến Thông tư số 21/2024/TT-BYT quy định phương pháp định giá dịch vụ khám bệnh chữa bệnh, ngày 14.11, Bộ Y tế cho biết thông tư này quy định cụ thể nguyên tắc, căn cứ định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh; quy định điều kiện và hướng dẫn việc lựa chọn áp dụng phương pháp định giá khám bệnh, chữa bệnh theo 2 phương pháp là phương pháp so sánh và phương pháp chi phí; cho phép đơn vị lập phương án giá được lựa chọn 1 trong 2 phương pháp định giá.
Trường hợp áp dụng được cả 2 phương pháp định giá cùng lúc thì được ưu tiên lựa chọn phương pháp so sánh.
Ngoài ra, do có sự thay đổi về thẩm quyền quyết định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh (Khoản 5,6,7 Luật Khám bệnh, chữa bệnh) nên Điều 9 của thông tư này đã hướng dẫn về hồ sơ và thủ tục phê duyệt giá khám bệnh, chữa bệnh.
Các hướng dẫn về việc phê duyệt giá khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu (hiện đang quy định tại Thông tư 13/2023/TT-BYT) được tiếp tục quy định và hướng dẫn tại Thông tư 14 như: Quy định một số nguyên tắc mà các cơ sở y tế sẽ phải thực hiện khi cung cấp dịch vụ theo yêu cầu; quy định về tỷ lệ giường bệnh theo yêu cầu không quá 20% so với giường thực hiện bình quân của năm trước; tỷ lệ thời gian các chuyên gia, bác sĩ giỏi tham gia khám chữa bệnh yêu cầu tối đa 30%; đồng thời hướng dẫn về cách ban hành giá khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu phù hợp với thực tế của đơn vị.
Về việc điều chỉnh giá khám bệnh, chữa bệnh theo mức lương cơ sở 2,34 triệu đồng của thông tư, Bộ Y tế cho biết Nghị định 96/2023/NĐ-CP cho phép các đơn vị được thực hiện theo mức giá được cấp có thẩm quyền ban hành, hoặc phê duyệt đến khi có quy định mới nhưng không muộn hơn 3.12.2024. Nghĩa là từ nay đến 31.12.2024 các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải triển khai phê duyệt giá khám bệnh, chữa bệnh theo đúng thẩm quyền quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh.
Căn cứ Nghị định 73/2024/NĐ-CP, Thông tư 21/2024/TT-BYT về phương pháp định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc Bộ Y tế và các bộ, ngành xây dựng hồ sơ phương án giá theo phương pháp chi phí giữ nguyên cơ cấu giá và định mức đã ban hành, chỉ điều chỉnh yếu tố tiền lương từ mức lương cơ sở từ 1,8 triệu đồng sang mức lương cơ sở 2,34 triệu đồng.
Theo Bộ Y tế, đến thời điểm hiện nay, bộ đã phê duyệt giá khám bệnh, chữa bệnh cho 5 bệnh viện hạng đặc biệt và 10 bệnh viện hạng 1. Các địa phương đang khẩn trương triển khai thực hiện phê duyệt giá theo mức lương 2,34 triệu đồng cho cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn không cao hơn mức giá cao nhất của dịch vụ tương ứng do Bộ Y tế quy định. Cấp có thẩm quyền phê duyệt giá ngày nào thì đơn vị được thực hiện thu theo mức giá mới từ ngày đó.
Bộ Y tế nhận định việc điều chỉnh giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh sẽ tác động đến so sánh chênh lệch thu chi của quỹ bảo hiểm y tế (BHYT) hằng năm (lũy kế kết dư năm 2023); đồng thời số thu quỹ BHYT tăng do điều chỉnh mức lương cơ sở thường sớm hơn việc điều chỉnh giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh nên quỹ BHYT đủ khả năng cân đối.
Riêng với những người tham gia BHYT là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách xã hội được BHYT thanh toán 100% thì việc điều chỉnh giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh không bị ảnh hưởng. Các đối tượng có thẻ BHYT phải đồng chi trả ở mức 20% hoặc 5% thì phần đồng chi trả tăng thêm không nhiều, và có khả năng chi trả vì thu nhập của các đối tượng cũng được tăng theo tiền lương cơ sở.
Đối tượng chưa có thẻ BHYT (khoảng 8% dân số) chỉ ảnh hưởng đến phần thanh toán theo giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh.
Ngày 17.10.2024, Bộ Y tế ban hành Thông tư 21/2024/TT-BYT quy định phương pháp định giá dịch vụ khám bệnh chữa bệnh. Theo đó, thông tư này có 2 chương, 4 mục và 15 điều. Đây là thông tư quy định phương pháp định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và điều chỉnh giá khám bệnh, chữa bệnh theo mức lương cơ sở quy định tại Nghị định 73/2024/NĐ-CP. Thông tư có hiệu lực tại thời điểm ban hành.