Các doanh nghiệp phải là đầu tàu thúc đẩy ứng dụng các tiến bộ KH-CN mới vào sản xuất, đồng thời hình thành chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp để phát triển nông nghiệp bền vững.
Trao đổi với phóng viên Một Thế Giới bên lề hội thảo chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế, PGS-TS Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính) cho rằng việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp đang đòi hỏi phải có sự đầu tư tương xứng nguồn vốn và công nghệ. Đặc biệt là hướng vào việc hình thành chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp để phát triển nông nghiệp bền vững.
Đảng và Nhà nước luôn xác định, phát triển nông nghiệp phải được đặt ở vị trí trung tâm, là ngành mũi nhọn quan trọng để phát triển toàn diện và bền vững nền kinh tế. Tuy nhiên, nông nghiệp hiện chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh. Theo ông, nguyên nhân do đâu?
PGS-TS Đinh Trọng Thịnh: Trong ngành nông nghiệp, người sản xuất hiện nay chủ yếu vẫn là hàng triệu các nông hộ mang tính nhỏ lẻ, phân tán chưa tuân thủ quy trình sản xuất, chưa tạo ra sản phẩm an toàn chất lượng đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Điều này phá vỡ các quy hoạch và các kế hoạch phát triển nông nghiệp, gây khó khăn cho hoạt động quản lý và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Ngoài ra, công nghệ lạc hậu, một số nông hộ chạy theo lợi nhuận trước mắt, đã sử dụng bừa bãi các loại thuốc trừ sâu, các chế phẩm độc hại, xuất hiện tình trạng “rau hai luống, lợn hai chuồng” dẫn đến chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm chưa đảm bảo.
Vì vậy, chất lượng nhiều nông sản do người Việt sản xuất không chỉ bị các cơ quan kiểm dịch và người tiêu dùng rất cẩn trọng ở các nước phát triển kiểm tra gắt gao, mà ngay cả với người tiêu dùng trong nước cũng rất lo ngại.
Mặt khác, do công nghệ lạc hậu nên chi phí sản xuất trong nông nghiệp của Việt Nam còn rất cao. Vì vậy, sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam thường yếu thế so với nông sản các nước khác không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay cả ở thị trường trong nước.
Cũng vì công nghệ lạc hậu nên năng suất lao động thấp, sản phẩm không thành các vùng nguyên liệu tập trung để có thể phát triển các doanh nghiệp sản xuất, chế biến và kết nối với mạng lưới phân phối thuận lợi. Điều này dễ dẫn tới việc các thương nhân có cơ hội chèn ép về chất lượng, giá cả của các sản phẩm nông nghiệp.
Như vậy, việc liên kết giữa doanh nghiệp, các thương lái và nhà phân phối với các nông hộ và nhà sản xuất nông nghiệp chưa bền vững. Ông nhìn nhận điều này thế nào?
PGS-TS Đinh Trọng Thịnh: Các hộ sản xuất chưa chú ý tới liên kết nhóm hộ, liên kết với các doanh nghiệp cung cấp các vật tư, phân bón, thức ăn chăn nuôi…, liên kết với các doanh nghiệp phân phối, tiêu thụ sản phẩm đầu ra mà vẫn sản xuất tự phát mạnh ai người đó làm. Do đó, chưa tạo được vùng sản xuất tập trung, dòng sản phẩm đủ lớn và ổn định để đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của thị trường trong nước và các bạn hàng nhập khẩu nước ngoài lớn.
Điều này dẫn đến hậu quả tình trạng thường xuyên “được mùa mất giá”, hiệu quả kinh tế không cao, sản xuất nông nghiệp thiếu tính bền vững. Do các nông hộ vẫn chủ yếu tự sản xuất nên không thể trực tiếp bán hàng, nhưng thông qua các kênh phân phối thì phải chiết khấu rất cao.
Để được bán thường xuyên sản phẩm của mình thông qua các hệ thống phân phối trong nước thường các nông hộ phải chiết khấu 35% cho kênh phân phối mới thường xuyên được bán hàng, còn nếu 15 -20% thì một năm chỉ được bán một lần. Do vậy, giá cả tăng cao, sức cạnh tranh của hàng hóa nông nghiệp giảm sút.
Việc liên kết giữa các bên cũng chưa bền vững do chưa có cơ chế chia sẻ lợi nhuận, cơ chế chia sẻ rủi ro, chủ yếu vẫn là liên kết theo hình thức thương thảo thuận mua vừa bán theo hợp đồng từng lần.
Ngoài ra, có tình trạng nhiều hộ nông mặc dù đã ký hợp đồng, nhận đầu tư ứng trước của doanh nghiệp vẫn sẵn sàng phá vỡ liên kết khi giá cả trên thị trường tăng cao hơn giá cả trong các hợp đồng.
Ngược lại, cũng có nhiều thương lái và nhà phân phối đưa ra các phương thức mua bán không song phẳng, hạ nhóm chất lượng sản phẩm, chèn ép giá cả với các nông hộ và nhà sản xuất nông sản khi được mùa hoặc khi vào chính vụ thu hoạch.
Tình trạng này không chỉ làm cho các hộ nông dân và nhà sản xuất nông nghiệp điêu đứng, nhiều người bị phá sản mà còn làm cho đất nước mất đi một khối lượng sản phẩm lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành nông nghiệp và sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc gia.
Điều này làm cho việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chỉ là những sản phẩm thô, với giá trị thấp, thời gian bảo quản ngắn và càng dễ bị các thương lái ép giá trở thành vòng luẩn quẩn.
Có thể thấy, liên kết trong sản xuất nông nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt. Theo ông, biện pháp nào để chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp theo chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm để phát triển nông nghiệp bền vững?
PGS-TS Đinh Trọng Thịnh: Trong nền kinh tế thị trường và tốc độ hội nhập cao của nền kinh tế Việt Nam, cần thực hiện liên kết thành các chuỗi sản xuất cho từng sản phẩm nông nghiệp và cho từng nhóm sản phẩm đồng bộ từ sản xuất đến tiêu dùng.
Các cơ quan chức năng cần quy hoạch các vùng trồng trọt, chăn nuôi lớn trong từng khu vực và trong cả nước. Các quy hoạch này cần có tầm nhìn dài hạn và có tính toán đến việc phát triển các giống vật nuôi, cây trồng mới và việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Đối với các vùng có thế mạnh riêng trong sản xuất nông nghiệp cần có cơ chế tháo gỡ về tích tụ đất đai, nguồn vốn để xây dựng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao; nhà máy chế biến nông sản, nhà máy giết mổ và chế biến các sản phẩm gia súc, gia cầm trong vùng; hoàn thiện, cải cách các quy định pháp lý liên quan.
Đồng thời có chế tài phù hợp để hỗ trợ giải quyết tranh chấp hợp đồng thu mua giữa doanh nghiệp phân phối, thương lái và người sản xuất. Đối với những trường hợp thiệt hại do các nguyên nhân bất khả kháng, cần có chính sách cụ thể để hỗ trợ thiệt hại cho các bên tham gia liên kết.
Đặc biệt, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và phát triển các chuỗi giá trị gắn với thế mạnh từng địa phương. Các doanh nghiệp phải là đầu tàu thúc đẩy ứng dụng các tiến bộ khoa học-công nghệ mới vào sản xuất, áp dụng công nghệ số trong quản lý sản xuất và kinh doanh, thực hiện chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, tiết kiệm tối đa tài nguyên, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
Hiện nay các doanh nghiệp lớn còn ngần ngại đầu tư cho sản xuất, kinh doanh nông - lâm - ngư nghiệp do vốn đầu tư lớn nhưng lại rủi ro cao và thu hồi chậm. Theo ông làm thế nào để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp?
PGS-TS Đinh Trọng Thịnh: Hầu hết các doanh nghiệp phải vay vốn ngân hàng để ứng trước cho các nông hộ, nhưng khi gặp rủi ro do thiên tai hay các nguyên nhân bất khả kháng khác, nông dân không trả được nợ, doanh nghiệp sẽ không trả được nợ ngân hàng, bị chuyển nợ “xấu” với lãi suất cao và các điều kiện ngặt nghèo khác.
Từ đó làm tăng lãi suất vốn vay, giá thành sản phẩm chế biến tăng, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động và kết quả tài chính. Mặt khác, khi xảy ra tranh chấp, chưa có hành lang pháp lý cụ thể, phù hợp để hỗ trợ giải quyết rõ ràng, phân minh trách nhiệm và quyền lợi.
Theo tôi, ngân hàng cần tích cực tham gia vào chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị nông sản. Khi ngân hàng tham gia vào chuỗi giá trị sẽ giúp giảm thiểu rủi ro thị trường, rủi ro người vay, rủi ro thời tiết, dịch bệnh, tiết kiệm chi phí trong hoạt đông ngân hàng…
Điều quan trọng hơn, đó là các ngân hàng có thể nắm bắt tình hình thực tế, có sự tin cậy và có các quyết sách phù hợp khi cung cấp tài chính tốt nhất cho các chuỗi sản xuất sản phẩm nông nghiệp. Ngân hàng tham gia vào chuỗi giá trị nông nghiệp sẽ đảm bảo vốn để gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất và phân phối đến tận tay người tiêu dùn.
Các doanh nghiệp thương mại và các thương nhân trong chuỗi lên kết giá trị nông nghiệp ngoài liên kết dọc để đảm bảo giảm thiểu các chi phí và thường xuyên có sản phẩm hàng hóa tươi ngon, bổ, rẻ để cung cấp cho thị trường và người tiêu dùng, còn cần 6 xây dựng các liên kết ngang tạo thành các mạng liên kết chặt chẽ để đáp ứng các nhu cầu của thị trường.
Các cơ quan chức năng cần làm tốt vai trò quản lý của Nhà nước trong việc giám sát ký kết hợp đồng giữa bên sản xuất và bên tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đảm bảo nguyên tắc các bên tham gia liên kết đều bình đẳng và cùng có lợi, góp phần xây dựng các mối liên kết bền vững, hiệu quả. Đảm bảo phân phối thu nhập hợp lý kết quả thu nhập hoặc phân chia rủi ro phù hợp giữa các chủ thể tham gia chuỗi liên kết sản xuất, chế biên, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Xin cảm ơn ông!