Một người bạn làm địa chính tại xã miền núi tỉnh Phú Yên cho biết, anh đang giữ một con rùa cạn kích thước rất lớn và muốn giao cho tôi. Ngay lập tức, tôi chạy ngay đến nhà anh để được tận mục sở thị "cụ rùa".
Khi đến nơi, chính tôi cũng không xác định được con rùa thuộc loại nào vì trông nó quá già, móng chân nhọn hoắt và đặc biệt là có tới… 3 đuôi.
Rùa bị thợ rừng bắt tại khu vực giáp ranh giữa hai tỉnh Gia Lai và Phú Yên, sau đó mang về cho người thân nuôi làm cảnh. Vì biết tôi có thói quen giải cứu động vật cũng như có quan hệ với một số tổ chức bảo vệ động vật nên người bạn kia đã tin tưởng giao cho tôi.
Tôi nhanh chóng chụp ảnh rùa và liên lạc nhờ anh Tim McCormack, Giám đốc Chương trình Bảo tồn Rùa châu Á (ATP) có trụ sở tại Hà Nội, kiểm tra. Anh Tim cho biết đây là rùa núi viền (tên khoa học là Impressed tortoise hay Manouria impressa) được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam. Rùa thuộc danh mục động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm (nhóm IIB) cần được ưu tiên bảo vệ và bảo tồn.
Được mệnh danh là loài rùa cạn đẹp nhất, với mai và da màu nâu vàng, rùa núi viền trong tự nhiên lớn nhất chỉ dài khoảng 35cm. Trong khi đó, con rùa tôi đang giữ dài 30cm và nặng tới 3,2kg. Theo ước tính của các chuyên gia của Chương trình Bảo tồn Rùa châu Á, con rùa tôi đang giữ có tuổi thọ ít nhất là 30 năm. Ngoài ra, rùa núi viền còn được gọi là rùa 3 đuôi do 2 chân sau có 2 cái cựa lồi ra rất giống đuôi.
Tôi mang rùa về nhà mà trong lòng canh cánh lo âu vì theo anh Tim McCormack thì đây là loài rùa rất khó nuôi giữ, do thức ăn của chúng chủ yếu là thực vật, đặc biệt là các loại nấm rừng.
Thật vậy, tôi giữ rùa thêm 5 ngày cộng với khoảng 1 tuần bị bắt trước đó nhưng nó không hề ăn gì. Đây là một tình trạng thường gặp khi mang rùa từ rừng về nhà. Sau 5 ngày quan sát, tôi và một bạn điều phối viên của Chương trình Bảo tồn Rùa châu Á đã liên hệ với Vườn quốc gia Kon Ka Kinh (Gia Lai) để bàn giao vì đây là môi trường phù hợp nhất.
Để rùa trong một thùng xốp với một tấm vải ẩm bên dưới, tôi bắt đầu hành trình hơn 200km từ Phú Yên lên Gia Lai bằng xe đò. Giao thông từ các tỉnh về TP.HCM tương đối thuận tiện nhưng giữa các tỉnh trong khu vực với nhau thường rất khó khăn vì xe đò hầu hết đều là loại cũ kỹ hoặc nhỏ. Hơn nữa, chất lượng đường xá liên tỉnh thường không tốt lắm.
Sau khoảng 5 tiếng ròng rã, tôi cũng đến được Pleiku. Đón tôi là một người bạn lâu năm và tôi được sắp xếp ở tại một homestay gần Biển Hồ. Những người bạn tại Gia Lai cũng rất ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên họ thấy một con rùa đẹp đến vậy.
Sáng hôm sau, chúng tôi lên ô tô thẳng tiến đến Vườn quốc gia Kon Ka Kinh. May mắn là người dẫn đường của chúng tôi - anh Công - là một người thông thạo địa bàn vườn quốc gia. Anh Công cũng từng tham gia giải cứu nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm trong khu vực, thế nên câu chuyện về giải cứu động vật và bảo tồn dọc đường đi của chúng tôi trở nên xôm tụ hơn.
Đường vào Vườn quốc gia Kon Ka Kinh dài hơn 50km, qua các huyện Đắk Đoa và Mang Yang. Sau hơn 1 tiếng đồng hồ, chúng tôi cũng đã tới Trung tâm Cứu hộ bảo tồn và phát triển sinh vật thuộc Vườn quốc gia Kon Ka Kinh.
Theo anh Công, đường vào Kon Ka Kinh nay đã thuận tiện hơn ngày xưa rất nhiều. Thật vậy, ô tô của chúng tôi đi trên đường bê tông vào tận văn phòng Vườn quốc gia tại xã Ayun, huyện Mang Yang.
Trước đây, cứ mỗi mùa mưa đến, việc đi lại rất khó khăn bởi đường sá thường hư hại do lượng mưa khủng khiếp của xứ cao nguyên này. Ở bìa Vườn quốc gia là vùng sinh sống của đồng bào Ba Na, nơi người dân vẫn còn canh tác lúa nước, tận dụng các mảnh đất trũng ven suối. Sự kết hợp cảnh quan giữa ruộng lúa nước ven suối và rừng tự nhiên khiến tôi tự hỏi tại sao chính quyền địa phương không tập trung phát triển du lịch sinh thái ở khu vực này, nơi du khách có thể trải nghiệm cuộc sống cùng người dân bản địa và tận hưởng khí hậu trong lành.
Vì hôm đó là Chủ nhật (15.6) nên tiếp chúng tôi là anh Lê Văn Vương thuộc Trạm bảo vệ rừng số 8. Tại đây, tôi đã bàn giao cá thể rùa lại cho anh sau khi viết đơn tự nguyện giao nộp động vật rừng cũng như ký một số giấy tờ khác.
Theo quy trình thì Trung tâm Cứu hộ bảo tồn và phát triển sinh vật sẽ giữ rùa lại vài ngày để theo dõi sức khỏe. Đây là một việc quan trọng nhằm giúp động vật hoang dã quen với môi trường mới. Sau đó, một đoàn liên ngành bao gồm đại diện Trung tâm Cứu hộ bảo tồn và phát triển sinh vật, kiểm lâm, đại diện xã sẽ cùng thả cá thể rùa vào sinh cảnh phù hợp thuộc vùng lõi Vườn quốc gia Kon Ka Kinh.
Anh Vương tâm sự rằng anh cũng đã từng phối hợp tiếp nhận nhiều loài động vật hoang dã được giải cứu từ các quán nhậu trong tỉnh. Anh kể cho chúng tôi nghe về những chuyến băng rừng, những lần căng thẳng đối phó với lâm tặc hay cả những hành xử chưa phù hợp của chính lực lượng bảo vệ rừng.
Ở vườn quốc gia không có sóng điện thoại nhưng có mạng internet tại khu vực hành chính. Đây cũng là cách liên lạc duy nhất của những người bảo vệ rừng như anh Vương với gia đình và thế giới bên ngoài. Nghe những câu chuyện của anh, tôi hiểu rằng phải yêu rừng, yêu thiên nhiên lắm thì những người như anh mới có đủ động lực để tiếp tục làm công tác bảo vệ rừng đầy vất vả này.
Trong những ngày sau đó, các điều phối viên của Chương trình Bảo tồn Rùa châu Á sẽ thường xuyên giữ liên lạc với Trung tâm Cứu hộ bảo tồn và phát triển sinh vật thuộc Vườn quốc gia Kon Ka Kinh để hỗ trợ trung tâm trong việc chăm sóc và theo dõi cá thể rùa này, cũng như công tác bảo tồn rùa nói chung.