Ông Võ Hữu Hiển - Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết cơ cấu nợ công của Việt Nam đang từng bước được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn.
Thực trạng cơ cấu nợ cônghiện nay
Vấn đề nợ công trong thời gian gần đây đã thu hút sự quan tâm mạnh mẽ từ phía nhà nước cũng như người dân, đặc biệt trongtình trạng nợ công của Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng.
Đánh giá về vấn đề này, trao đổi với báo giới ngày 9.7, ông Võ Hữu Hiển - Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoạicho biết, cơ cấu nợ công của Việt Nam tínhđến cuối năm 2015 bao gồm: nợ Chính phủ chiếm 80,8%, nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,8% và nợ chính quyền địa phương chiếm 1,4%.
Trong cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước đang có xu hướng tăng từ 39% năm 2011 lên 57% năm 2015 và tỷ trọng nợ nước ngoài giảm tương ứng từ 61% năm 2011 xuống còn 43% năm 2015. "Cơ cấu này được đánh giá là phù hợp với chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia trong giai đoạn 2011-2020 tầm nhìn đến 2030", ôngnói.
Về cơ cấu lãi suất, lãi suất phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường vốn trong nước bình quân giảm từ mức 12%/năm vào năm 2011 xuống còn khoảng 6,5% vào năm 2014 và khoảng 6% vào năm 2015, góp phần thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu trong nước. Đối với nợ nước ngoài do các khoản vay ODA, vay ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn, lãi suất bình quân tính đến cuối năm 2015 khoảng 2%/năm.
Cơ cấu các loại tiền trong danh mục nợ của Chính phủ được tập trung chủ yếu vào một số loại tiền chính như: tiền đồng với tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ trọng 16%; yen Nhật chiếm tỷ trọng 13% và euro chiếm tỷ trọng7%, còn lại là các loạitiền khác.
Đánh giá về cơ cấu nợ công, lãnh đạo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho biết thêm, Bộ Tài chính đã phân tích về bền vững nợ công với Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ Quốc tế. Theo đó, cơ cấu nợ công của Việt Nam đang từng bước được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn.
Áp lực huy động vốn đầu tư quá lớn
Theo số liệu của Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2011-2015, nợ công của Việt Nam tăng khoảng 12,2% GDP, từ mức 50% vào năm 2011 lên 62,2% vào cuối năm 2015. Mức nợ được đánh giá là khá cao. Qua đó có thể thấy, cơ cấu nợ của Việt Nambền vững nhưng dư nợ công lại đang tăng nhanh.
Lý giải về điều này, ông Võ Hữu Hiển nóivấn đề nợ công tăng nhanh, nguyên nhân trước tiên là do áp lực huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể, trong giai đoạn 2001-2005, đầu tư cho toàn xã hội bình quân là 39% GDP. Tới giai đoạn 2006-2010, tỷ lệ này đạt 42,9% GDP. Từ năm 2011-2015, mặc dù mức vốn đầu tư toàn xã hội giảm nhưng vẫn duy trì khoảng 32% GDP.
"Đầu tư ở mức tương đối cao trong khi tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế cho đầu tư chỉ khoảng 25% GDP dẫn đến sự thiếu hụt về nguồn vốn cho đầu tư, đồng nghĩa với việc phải đi vay. Việt Namlà một nước đang trong giai đoạn phát triển, cũng như rất nhiều nước phát triển khác nên buộc phải tăng vay nợ cho đầu tư, đặc biệt là các công trình kết cấu hạ tầng đồng bộ… từ đó khiến quy mô nợ công tăng lên", ôngchỉ ra.
Xét trên khía cạnh khác, ông Hiển cho rằng cũng là do bối cảnh kinh tế giai đoạn 2011-2015 không thuận lợi, đặc biệt là việc điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả giai đoạn từ mức bình quân 7-7,5%/năm xuống 6,5-7%/năm. Tăng trưởng (cơ sở để tính toán các chỉ tiêu tài khóa, bội chi, vay nợ) lại giảm trong khi nhu cầu vay và các chỉ tiêu khác vẫn được giữ nguyên do phải tăng cường nguồn lực để thúc đẩy, duy trì, ổn định phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Đây chính là hệ quả tất yếu khiến tỷ lệ nợ công so với GDP tăng lên.
Ngoài ra, việc mất giá của tiền đồng với biến động khó lường của các loại tiền vay khác như USD, yên, nhân dân tệ... cũng làm quy mô nợ của Chính phủ tăng khi quy đổi sang tiền đồng.
Phải xác định rõ lộ trình giảm nợ công
Cũng theo ông Hiển, để giảm áp lực nợ công vàđảm bảo nợ công luôn ở mứcan toàn, ở đó cần phải có những lộ trình rõ ràng, cụ thể:
Thứ nhất, phải giám sát,kiểm soát kỹ các khoản vay mới doáp lực vay nợ cho phát triển kinh tế - xã hội là rất lớn. Để giảm áp lực này, trước hết phải xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn trong khả năng cân đối và đảm bảo tính bền vững của chính sách tài khóa; kiểm soát chặt chẽ danh mục đầu tư công và chỉ tập trung đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt cần sự đầu tư của Nhà nước.
Thứ hai, việc thực hiện các chương trình, dự án sử dụng nợ công phải tuân thủ đúng dự toán được giao; tránh hiện tượng điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư, đặc biệt là tăng từ nguồn vốn vay do triển khai chậm trễ, không đúng tiến độ dẫn đến khối lượng tăng lên. Chú trọng nâng cao hiệu quả sự dụng đầu tư công, sử dụng nợ công.
Thứ ba, kiên quyết cắt giảm bội chi ngân sách nhà nước theo lộ trình đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng XII và Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016-2020; tiếp tục giảm bảo lãnh Chính phủ, ưu tiên bố trí nguồn ngân sách nhà nước để trả nợ.
Thứ tư, thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước nhằm tăng nguồn vay trung và dài hạn cho đầu tư phát triển.
Thứ năm, mỗi năm phải cập nhật diễn biến kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế, sự thay đổi thị trường trong và ngoài nước… để chủ động xây dựng phương án điều chỉnh tổng mức vay và hạn mức nợ tương ứng để đảm bảo an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia.
Tuyết Nhung