Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% năm nay có thể đạt được (lạm phát đến hết tháng 10 là 1,81%). Tuy nhiên, trong năm 2022, rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn.

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng: Áp lực lạm phát 2022 rất lớn

Lam Thanh | 12/11/2021, 10:00

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% năm nay có thể đạt được (lạm phát đến hết tháng 10 là 1,81%). Tuy nhiên, trong năm 2022, rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn.

Áp lực lạm phát rất lớn

Phát biểu trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng cho biết đại dịch COVID-19 đã tác động nghiêm trọng đến tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân. Từ đầu năm 2020, NHNN đã 3 lần giảm lãi suất điều hành với tổng mức giảm 1,5-2%/năm. Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực.

Ngoài ra, NHNN cũng đã chỉ đạo và kêu gọi các tổ chức tín dụng thực hiện giảm lãi suất và mặt bằng đã giảm khoảng 1,66%/năm so với trước dịch. Từ khi có dịch COVID-19 đến nay, các tổ chức tín dụng đã giảm khoảng 30.000 tỉ đồng tiền lãi để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và sẽ tiếp tục thực hiện giảm từ nay cho đến cuối năm; hệ thống ngân hàng đã giảm hơn 2.000 tỉ đồng tiền phí cho các khách hàng.

nguyen-thi-hong.jpg
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng phát biểu

Thống đốc cho rằng mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% năm nay có thể đạt được (lạm phát đến hết tháng 10 là 1,81%). Tuy nhiên, trong năm 2022, rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn.

Cụ thể, các nền kinh tế thế giới đang gần phục hồi khi chiến lược vắc xin bao phủ, điều này dẫn tới giá cả hàng hóa đang có xu hướng gia tăng; các chỉ số của giá nhiều mặt hàng hóa như xăng dầu đã tăng 55% so với cuối năm trước. Các nước phát triển thì lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong lịch sử với Mỹ tăng 5,3% trong tháng 9. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam có độ mới cửa lớn với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 200% GDP nên áp lực rủi ro lạm phát nhập khẩu rất lớn.

Về chính sách lãi suất, lãnh đạo NHNN cho biết các ngân hàng trung ương thế giới đang có xu hướng dừng chính sách nới lỏng tiền tệ. Hiện có tới 65 lượt tăng lãi suất trên thế giới.

Trong khi đó, với thị trường trong nước, nợ xấu của các tổ chức tín dụng đang gia tăng. Trong thời gian vừa qua, các ngân hàng đã giảm lãi suất bằng chính nguồn lực tài chính của mình chứ không phải tiền ngân sách, nên khi nợ xấu gia tăng chắc chắn bản thân các ngân hàng phải sử dụng nguồn lực tự có để xử lý.

“Nếu để tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng suy giảm sẽ ảnh hưởng tới khả năng chi trả và an toàn của hệ thống. Đây là bài học kinh nghiệm rất lớn từ thời gian trước khi mà tăng trưởng tín dụng cao, thực hiện các gói hỗ trợ lãi suất năm 2008, không tính toán cẩn thận dẫn đến rủi ro lạm phát năm 2011, có thời điểm lên tới 18%”, Thống đốc nhấn mạnh.

Về phía NHNN, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết trong thời gian tới, cơ quan quản lý tiền tệ sẽ tiếp tục chỉ đạo hệ thống các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất. Tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo an toàn hoạt động của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống để tránh tác động dây chuyền.

Huy động 180.000 tỉ trong dân từ trái phiếu Chính phủ

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, các công cụ để thực hiện chính sách tài khóa cơ bản là thuế, thu ngân sách, nợ và chi ngân sách, kết hợp chính sách tài khóa với tiền tệ.

Về thu ngân sách, Bộ tiếp tục đề nghị Chính phủ, Quốc hội thực hiện chính sách thuế như năm 2021. Ví dụ giãn, hoãn thuế như năm 2021 (giãn hoãn đến 31.12 khoảng 115.000 tỉ đồng); giảm 30 loại phí; giảm giá xăng dầu, thuế của hàng không 50% (trước đây giảm 30%); miễn, giảm 30% thuế VAT, 30% thuế thu nhập doanh nghiệp, 50% thuế của hộ sản xuất kinh doanh, miễn phạt tiền chậm nộp; tập trung thu trên nền tảng số và sàn thương mại điện tử, phát hành hóa đơn điện tử để tránh hóa đơn giả, hoàn thuế trục lợi, trốn thuế...

Nếu tính GDP cũ, năm 2021 nợ công 56,8%, vượt ngưỡng cảnh báo 55%, đây là vấn đề cần cân nhắc. Dư nợ Chính phủ 51,5% theo GDP cũ, 40,5% theo GDP đánh giá lại; nợ công 3,75 triệu tỉ, nợ Chính phủ 3,397 triệu tỉ.

Về thực hiện các gói kích cầu, theo ông Phớc, nếu bỏ ra mỗi năm 20.000 tỉ, hai năm 2022-2023 là 40.000 tỉ, thì với lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp khoảng 4% thì huy động được khoảng 1 triệu tỉ bỏ vào nền kinh tế. Khoản này không làm tăng bội chi ngân sách, cũng không làm tăng nợ công vì nguồn này được lấy trong nguồn đầu tư chưa phân bổ 2021-2025.

Bộ Tài chính tính toán một số gói như phát hành trái phiếu Chính phủ, công trái bằng ngoại tệ để huy động tiền trong dân, dự tính huy động khoảng 180.000 tỉ đồng. Như vậy mỗi năm tăng bội chi ngân sách 1%.

Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng băn khoăn khi có tiền rồi, nền kinh tế có hấp thụ được không và vào lĩnh vực nào. Ông cho rằng, tiền phải đổ vào các dự án đầu tư công để dẫn dắt đầu tư, tạo nên đột phá lớn để tăng trưởng. "Phải lập dự án trong điều kiện đặc biệt thì mới tiêu được tiền ở các gói kích cầu", ông nói.

Bộ trưởng cũng cho biết, về chi ngân sách sẽ tiết kiệm chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển phải có hiệu quả. Ở các dự án không hiệu quả sẽ sắp xếp lại để đưa vào dự án khác hiệu quả hơn; tiết kiệm 50% chi tiếp khách, công tác phí trong nước và ngoài nước…

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Một thế giới
Kinh tế-xã hội Việt Nam gần đây và triển vọng trong năm nay - Bài 2: Các lĩnh vực đều tăng tốc, bứt phá
một giờ trước Kinh tế - đầu tư - dự án
Sản xuất nông-lâm nghiệp và thủy sản năm 2023 và quý 1/2024 tiếp tục là một trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế với kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng cao, chăn nuôi phát triển ổn định, nuôi trồng thủy sản phát triển khá.
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng: Áp lực lạm phát 2022 rất lớn