Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có góp ý về dự thảo Nghị định sửa đổi một số Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương.
Nhiều vướng mắc ở nghị định 116
Dự thảo này đề xuất sửa đổi, bãi bỏ, bổ sung nhiều quy định về điều kiện kinh doanh trong các lĩnh vực như sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu ô tô, điện lực, hóa chất, kinh doanh khí….
VCCI cho biết, thời gian qua, cơ quan này nhận được nhiều ý kiến từ các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu ô tô nước ngoài về một số vướng mắc liên quan đến quy định tại Nghị định 116.
Cụ thể, Nghị định 116 yêu cầu kiểm tra, thử nghiệm về khí thải và an toàn kỹ thuật cho từng lô xe ô tô nhập khẩu (tại mục 2, điểm a, khoản 2, điều 6). Quy định này làm tăng chi phí cho doanh nghiệp và các doanh nghiệp kiến nghị thay đổi theo hướng chứng nhận, thử nghiệm lần đầu và chấp nhận kết quả cho các lô hàng tiếp theo có cùng kiểu loại nếu không có sự thay đổi về thông số kỹ thuật.
Bên canh đó, Nghị định 116 quy định “Lô xe nhập khẩu là các ô tô thuộc một tờ khai hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp nhập khẩu ô tô” (khoản 10 Điều 3). Có nghĩa, nếu 1 lô hàng có cùng vận đơn, cùng hóa đơn, cùng cảng đích, có số thuế nhập khẩu từ 12 chữ số sẽ phải làm thủ tục khai báo hải quan bằng giấy mà không sử dụng được hệ thống VNACCS, vì phải tách tờ khai để giảm trị giá. Nếu tách tờ khai sẽ phải lấy ít nhất 2 xe ô tô nhập khẩu thay vì 1 xe đi làm mẫu. Điều này sẽ gia tăng chi phí cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp đề nghị bổ sung sửa đổi điểm này thành “một lô xe nhập khẩu là một lô hàng mà các ô tô có chung một vận đơn”.
Nghị định 116 cũng yêu cầu các doanh nghiệp nhập khẩu ô tô phải cung cấp Giấy chứng nhận chất lượng kiểu loại của cơ quan thẩm quyền nước ngoài (viết tắt là VTA, tại mục 1 điểm a khoản 2 Điều 6).
Một số doanh nghiệp cho biết, các hãng có xe nhập nguồn từ Nhật Bản đều không thể có VTA do Chính phủ Nhật không có cơ chế hoặc quy định về cấp VTA. Doanh nghiệp kiến nghị chấp thuận phương án thay thế VTA bằng một trong nhiều giấy chứng nhận kiểu loại linh kiện được cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp.
Cũng theo VCCI, Dự thảo đã bỏ các điều kiện “có đủ nhân lực, phương án bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động” (khoản 3 Điều 7); “đáp ứng đủ điều kiện an toàn về phòng cháy và chữa cháy, phương án chữa cháy theo quy định của pháp luật phòng cháy, chữa cháy” (khoản 4 Điều 7); “có đủ các hồ sơ về bảo vệ môi trường đối với nhà máy sản xuất, lắp ráp ô tô đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường” (khoản 5 Điều 7) (Điều 2 Dự thảo); bổ sung quy định về trách nhiệm bảo đảm chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường…
Tuy nhiên, theo VCCI, việc sửa đổi, bổ sung các quy định trên là không thay đổi về điều kiện sản xuất, lắp ráp ô tô, các doanh nghiệp vẫn phải đáp ứng các điều kiện về an toàn, vệ sinh lao động, phòng cháy và chữa cháy theo quy định của pháp luật liên quan.
Quy định tại Nghị định 116 và dự thảo đều dẫn chiếu chung chung theo hướng “theo quy định của pháp luật về …”. Xét bản chất, dù dự thảo có quy định hay không thì doanh nghiệp cũng phải đáp ứng các điều kiện về an toàn, vệ sinh lao động; phòng cháy và chữa cháy; bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật. Vì vậy, việc dự thảo bổ sung Điều 1 về các quy định này là không cần thiết. Đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại Điều 1 Dự thảo.
Góp ý tương tự đề nghị Ban soạn thảo bỏ khoản 2 Điều 3 Dự thảo về bổ sung quy định dẫn chiếu yêu cầu tổ chức phát điện phải đảm bảo các quy định bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, phòng cháy và chữa cháy.
Đề nghị bãi bỏ điều kiện bất hợp lý về kinh doanh khí
Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 87/2018/NĐ-CP về kinh doanh khí, VCCI cho rằng một số điều chỉnh đối với quy định về điều kiện kinh doanh khí tại Dự thảo là hợp lý. Tuy nhiên, Nghị định 87/2018/NĐ-CP vẫn còn một số quy định về điều kiện kinh doanh cần được xem xét để sửa đổi.
Cụ thể, trong điều kiện kinh doanh khí, Nghị định 87 yêu cầu thương nhân phải có hợp đồng thuê cơ sở vật chất với thời hạn thuê tối thiểu, ví dụ điều kiện đối với thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu khí (Điều 6): Có cầu cảng hoặc có hợp đồng thuê tối thiểu 5 năm cầu cảng thuộc hệ thống cảng Việt Nam đã được cấp có thẩm quyền cho phép sử dụng.
Hay điều kiện đối với thương nhân sản xuất, chế biến khí (Điều 7): Có phòng thử nghiệm chất lượng khí hoặc có hợp đồng thuê tối thiểu 1 năm của thương nhân, tổ chức có phòng thử nghiệm đủ năng lực thử nghiệm các chỉ tiêu theo quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
Điều kiện đối với thương nhân kinh doanh pha chế khí (Điều 9): có phòng thử nghiệm chất lượng khí hoặc có hợp đồng thuê tối thiểu 1 năm với tổ chức đủ năng lực thử nghiệm các chỉ tiêu theo quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
Điều kiện đối với cửa hàng bán lẻ LPG chai (Điều 10): Có hợp đồng tối thiểu 1 năm bán LPG chai với thương nhân có giấy chứng nhận đủ điều kiện còn hiệu lực theo quy định tại Nghị định này, trừ trường hợp cửa hàng trực thuộc của thương nhân.
VCCI cho rằng, yêu cầu thời hạn tối thiểu của hợp đồng thuê là chưa hợp lý, can thiệp vào quyền thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Mặt khác, về mặt quản lý, yêu cầu thời hạn tối thiểu không đảm bảo chắc chắn là thương nhân đáp ứng điều kiện là có quyền sử dụng cơ sở vật chất bởi vì, trong mối quan hệ hợp đồng các bên có thể chấm dứt hợp đồng bất kỳ thời điểm nào (cả đơn phương hoặc đồng thuận).
Vì vậy, để đảm bảo tính hợp lý, VCCI đề nghị ban soạn thảo bổ sung quy định trong dự thảo bỏ yêu cầu tối thiểu về số năm thuê trong hợp đồng tại các điều khoản trên.
Lam Thanh