Gọi là mắm thôi chứ trông nó ngà ngà cánh gián, mặn chát, ớt băm nhỏ nổi lềnh phềnh. Thằng đến trước thủ ngay nửa bát sắt tráng men, vớt thật nhiều ớt, lấy sẵn cho bàn ăn nhóm mình. Chỉ vài phút đã cạn ráo củ tỉ nồi mắm, bọn đến sau chưng hửng nhìn cái nồi trơ tận đáy.

Chuyện nước mắm (kỳ 4): Nhớ mắm đại dương, nhớ canh toàn quốc

30/01/2018, 05:18

Gọi là mắm thôi chứ trông nó ngà ngà cánh gián, mặn chát, ớt băm nhỏ nổi lềnh phềnh. Thằng đến trước thủ ngay nửa bát sắt tráng men, vớt thật nhiều ớt, lấy sẵn cho bàn ăn nhóm mình. Chỉ vài phút đã cạn ráo củ tỉ nồi mắm, bọn đến sau chưng hửng nhìn cái nồi trơ tận đáy.

Thời bao cấp, những bữa cơm như thế này luôn là niềm ao ước của đám sinh viên - Ảnh: Internet

Chuyện nước mắm (kỳ 1)

Chuyện nước mắm (kỳ 2)

Chuyện nước mắm (kỳ 3): Nghèo thì rau mắm lại càng thấm lâu...

Bây giờ, cứ vừa bước chân vào quầy thực phẩm ở các siêu thị thì đập vào mắt là “trên giời dưới mắm”. Đủ thứ thương hiệu, đủ hạng cao cấp - bình dân, muốn loại nào cũng có. Nhiều loại mắm, cứ theo nhà sản xuất quảng cáo, có cảm giác chỉ cần rưới vào cơm là vét sạch nồi, thay cho thịt cá rau quả. Mắm thế mới là mắm. Nhưng tôi chả bao giờ tin, bởi tôi đã dành đam mê mắm của mình cho mắm cáy mắm tôm mà bu tôi làm từ khi xưa rồi.

Thế mà có những lúc “đói mắm”, thèm mắm chết đi được. Nói đâu xa, thời sinh viên là đói mắm nhất. Không còn mắm cáy như hồi ở nhà, đám sinh viên gốc nông dân rặt như tôi chỉ trông chờ vào nồi nước mắm của nhà ăn tập thể. Nói chính xác là nước muối chạy qua hàng mắm.

Ai đã học các khoa Văn, Sử của Trường đại học Tổng hợp Hà Nội những năm 1973 - 1976 ở ký túc xá Mễ Trì (huyện Từ Liêm) chắc còn nhớ cái nhà ăn phía sau nhà C2. Nó bị bom Mỹ xơi gọn đúng một nửa, nửa phần còn lại y nguyên. Cũng giống như cái nhà D6 cao 5 tầng bên khu Trường đại học Ngoại ngữ, lối sang bên ĐH Tổng hợp, bom laser chặt hẳn một nửa, cứ y như ai lấy con dao rựa khổng lồ sắc lẻm chặt ngọt một phát đứt đôi. Đó là kết quả của những đợt máy bay Mỹ tháng 12.1972 đánh vào khu phát sóng của Đài tiếng nói Việt Nam đặt tại Mễ Trì, nếu từ nhà thờ Phùng Khoang vào sâu còn khoảng nửa cây số. Công nhận công nghệ giết người của bọn Mỹ tài thật, chứ giao cho quân ta, lại chả phá nham nhở như đám gạch vụn. Cầu Long Biên qua sông Cái cũng thế, đứt 2 nhịp ngọt sớt. Suốt nhiều năm liền thời hậu chiến, do khó khăn, người ta vẫn giữ lại, sử dụng cái nhà ăn cũng như tòa nhà D6 một nửa ấy để làm việc, coi như chả có gì vừa xảy ra.

Từng ấy năm đại học, ngày nào đám sinh viên chúng tôi cũng phải ngắm những chứng tích chiến tranh, sản phẩm của khoa học quân sự này. Nhiều năm sau, khi cả đám đã tốt nghiệp, tỏa đi khắp nơi, thỉnh thoảng tôi hỏi thăm mấy đứa được giữ lại khoa, hỏi cái nhà ăn có còn không, chúng bảo còn. Đến khi “hàn gắn vết thương chiến tranh”, nhất là vào thời kỳ đô thị hóa, tấc đất tấc vàng, người ta đã đập bỏ đi. Tôi rất tiếc, giá cái nửa nhà D6 kia mà giữ lại làm kỷ niệm thời chiến thì hay biết bao nhiêu. Gắn cho nó cái biển “chứng tích chiến tranh” để con cháu sau này đến chiêm ngưỡng. Tôi và người bạn gái học bên trường Ngoại ngữ cũng đã nhiều lần trú mưa ở hàng hiên của nó, mải trò chuyện tán nhau đến khi nhìn lên giời qua khe nứt của hàng hiên bị bom thì mới biết trăng đã lặn từ bao giờ.

Vòng về chuyện mắm. Đến giờ ăn, đám sinh viên Văn - Sử từ nhà C2 men theo hố bom ùa vào nhà ăn B-52. Cứ mỗi bàn 6 người, suất ăn gồm 1 nồi nhôm cơm, 1 nồi nhôm canh (còn gọi là canh toàn quốc), 1 đĩa mặn hôm thì trứng hôm thì cá hôm thì thịt (thái mỏng tới mức gió thổi bay). Mấy năm ròng rã chỉ 3 món ấy, kể cả cơm. Món thứ 4 là mắm thì phải tự lấy bởi nhà ăn không có đồ đựng, vả lại chả ai rỗi hơi đâu mà chiều đám sinh viên ốm đói như ma này. Vậy là có những nhóm thày cử (nhân) tương lai khôn ngoan, phân công một đứa nghỉ học ở nhà hoặc đứa nào đó trốn mươi phút cuối cùng của tiết học chót, đến chực sẵn tại cửa nhà ăn. Chú Nghề bếp trưởng đã cho đặt sẵn ngay hành lang cái nồi nhôm đại Liên Xô đựng nước mắm pha, sinh viên âu yếm đặt tên là mắm đại dương. Gọi là mắm thôi chứ trông nó ngà ngà cánh gián, mặn chát, ớt băm nhỏ nổi lềnh phềnh. Thằng đến trước thủ ngay nửa bát sắt tráng men, vớt thật nhiều ớt, lấy sẵn cho bàn ăn nhóm mình. Chỉ vài phút đã cạn ráo củ tỉ nồi mắm, bọn đến sau chưng hửng nhìn cái nồi trơ tận đáy. Cuộc đua giành mắm ớt diễn ra suốt mấy năm trời, sau này cứ mỗi lần nhìn thấy bát nước mắm pha tỏi ớt của bà xã là tôi lại gai người nhớ hồi đi vòng qua hố bom (có hôm suýt té xuống nước, may mà tóm được cái cành nhãn) xông vào nhà ăn chứng tích B-52 để giành nước mắm.

Sau nữa, khi vào miền Nam dạy học, tôi ở chung ký túc xá Trường dự bị đại học TP.HCM với nhiều đồng nghiệp vốn là giáo viên từ trước 1975 dạy ở Sài Gòn. Một trong những người mà tôi rất mến là thầy Cung Bỉnh Duyệt dạy lý. Tôi ở lầu 4, thầy Duyệt lầu 5, phòng thầy ngay trên phòng tôi. Thầy Duyệt vốn là thầy dòng, từng dạy trường dòng Lassan Taberd gần nhà thờ Đức bà, quận 1 (sau này chính quyền mới tịch thu các cơ sở tôn giáo, chuyển thành trường sư phạm, rồi trường cấp 3, giờ là Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa). Thầy thuộc dòng dõi Tuần phủ Thái Nguyên Cung Đình Vận. Năm 1945, quân cách mạng đã chiếm phủ Thái Nguyên, bắt Tuần phủ Cung Đình Vận lôi ra xử bắn. Trong những vị quan lại cao cấp của nhà Nguyễn thời 1945, hàm thượng thư, tổng đốc, tuần phủ, đổng lý triều đình như các cụ Vi Văn Định, Nguyễn Hữu Bài, Phạm Quỳnh, Phạm Khắc Hòe, Phan Kế Toại..., thì cụ Vận và cụ Phạm Quỳnh số phận thật không may. Sau tháng 5.1954, cả nhà thầy Duyệt phải di cư vào Nam, bởi gia đình chịu cái lý lịch có người thân bị cách mạng xử lý chắc sẽ gặp nhiều phiền toái.

Thầy Duyệt mỗi lần có món gì ngon lại từ trên lầu 5 lấy cái cọc màn gõ cộc cộc xuống sàn ra hiệu báo tôi lên. Hôm ấy nghe tiếng gõ, tôi vừa lò dò lên đã ngửi sực mùi là lạ. Trên chiếc bàn gỗ sứt sẹo bày một đĩa đầy, món tôi chưa thấy bao giờ. Có cả thầy Tài dạy toán (sau này thành anh em cọc chèo với tôi) đang chờ. Thầy Duyệt giục ăn đi, lấy bánh tráng cuộn nó với bún, rau sống, khế xắt mỏng, chuối chát... Đưa miếng nào vào mồm, ồ à nức nở khen ngay miếng ấy. Tôi làm một chặp liền mấy cuộn rồi mới bình tĩnh lại, hỏi món gì. Thầy Duyệt cười, bảo dân miền Nam gọi nó là mắm Thái Dúi. Tôi nức nở khen mắm Thái Dúi ngon, ít nhất cũng vì nó ngon thật, ngoài ra cũng một phần để về sau nếu có “tiệc” mắm Thái Dúi nữa thì thầy Duyệt lại nhớ đến mình, lấy cọc màn cộc cộc ra tín hiệu. Khi đã lập gia đình rồi, tôi khoe bà xã (dân Nam Bộ) thầy Duyệt có món mắm Thái Dúi ngon lắm, hôm nào nhà mình tổ chức ăn thử coi. Bà xã tôi cười rung cả nhà, bảo ông khờ ạ, ông Duyệt đùa đấy, nó là mắm Thái thôi, chứ thái dúi nói lái là dái thúi, ông tướng khờ ạ. Hóa ra mình quá ngu.

Năm 1984, sau nhiều năm ráng chịu đựng cuộc sống bao cấp nghèo đói khốn khó nhưng không trụ nổi, thầy Duyệt đã xuất cảnh qua Thụy Sĩ, nơi gia đình thầy đã ở đó từ mấy năm trước. Từ bấy đến nay tôi chưa có dịp gặp lại con người uyên bác, dí dỏm, vị thày tu xuất, người cháu của cụ Cung Đình Vận.

Nguyễn Thông

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Một thế giới
Vẫn còn băn khoăn về phương pháp định giá trong dự thảo nghị định quy định về giá đất
Góp ý về dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định về giá đất để hướng dẫn Luật Đất đai năm 2024, ông Nguyễn Tiến Thỏa, Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam cho rằng có một số điểm không hợp lý.
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Chuyện nước mắm (kỳ 4): Nhớ mắm đại dương, nhớ canh toàn quốc