"Tôi tham gia cuộc chiến chống giấy phép con từ khi mái tóc còn xanh, nay tóc bạc mà vẫn phải tiếp tục cuộc chiến này vì vẫn chưa biết bao giờ đến hồi kết", Chủ tịch Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam Trần Hữu Huỳnh nói.
Mỗi ngành nghề kinh doanh hiện nay có hàng trăm điều kiện conrất phức tạp và không rõ ràng, thậm chí là mơ hồ, nhưng lại can thiệp rất sâu vào quyền tự do kinh doanh, chúng giống như quả bom nổ chậm “giết chết” doanh nghiệp.
Theo ông Nguyễn Quang Vinh - Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM), hiện tượng doanh nghiệpthành lập nhiều nhưng cũng bị "khai tử" nhiều thời gian qua có nguyên nhân từ điều kiện kinh doanh (hay còn gọi là giấy phép con) gây khó khăn, cộng với quyền hành xử của cơ quan thực thi, tạo ra chi phí lớn cho doanh nghiệp.
Nghịch lý là doanh nghiệpmới sử dụng công nghệ cao thì không được tham giathị trường, trong khi doanh nghiệp cũ từng vượt qua được các rào cản giấy phép con vẫn hoạt động với công nghệ cũ.Điều này khiến năng suất lao động của doanh nghiệp không cải thiện.
Luật sư Trương Thanh Đức - Chủ tịch Công ty Luật Basico đánh giá, về mặt pháp lý có nhiều đột phá trong việc giảm điều kiện kinh doanh, giải pháp cũng quyết liệt nhưng lại bị bóp méo, hạn chế do các quan điểm cải cách nửa mùa, thỏa hiệp. Nguyên nhân là bộ, ngành không muốn bỏ điều kiện kinh doanh.
Rõ nhất là lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu ô tô, xăng dầu, xuất khẩu gạo, 99% doanh nghiệp muốn bỏ điều kiện kinh doanh nhưng tiếng nói không có sức nặng bằng 1% doanh nghiệp muốn giữ lại để hạn chế sự tham gia của doanh nghiệp mới.
Bên cạnh đó, điều kiện kinh doanh trá hình đang phát tán dưới 4 hình thức: Quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, thủ tục hành chính và quy hoạch. Nó "oanh tạc" và gây khó dễ cho doanh nghiệp.
Trưởng ban Pháp chếPhòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Đậu Anh Tuấn đánh giá: “Việc đặt thêm các giấy phép kinh doanh mới, điều kiện kinh doanh mới mà rất nhiều trong số đó nó không phù hợp sẽ gây tốn kém không ý nghĩa về mặt quản lý nhà nước tạo ra hệ luỵ lớn, giảm tính cạnh tranh, phát sinh nhũng nhiễu”.
Như vậy để giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, xem ra cần phải cắt xén mạnh mẽ hơn nữa những quy định gây ra rủi ro, làm gia tăng chi phí, hạn chế tính cạnh tranh của doanh nghiệp; nhanh chóng rà soát các thủ tục quy định về điều kiện kinh doanh để bãi bỏ những điều kiện nào không còn phù hợp.
Theo ông Vinh từ CIEM, Chính phủ cần có nhóm chuyên trách từ cấp trung ương về điều kiện kinh doanhmới có thể cải cách đượcvì công việc này hiện gặp rất nhiều cản trở.
Hơn nữa, việc đơn giản hoá điều kiện kinh doanh phải là quá trình thường xuyên, chứ không phải bãi bỏ được 10 điều kiện kinh doanh lại khôi phục lại 7 hoặc hơn 10 thì điều đó không nhiều tác dụng.
“Nếu các bộ ngành đều dễ dàng đặt ra ở địa vị cơ quan nhà nước mà không cân nhắc lợi ích chung quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp thì đó là thất bại của quá trình cải cách”, ông Đậu Anh Tuấn nhấn mạnh.
VCCIcho biết có tất cả 5.719 điều kiện kinh doanhthuộc 243 ngành nghề được quy định bởi luật Đầu tư. Trong đó, Bộ Công thương có 27 ngành nghề với 1.220 điều kiện, tiếp đến là Bộ Y tế có 16 ngành nghề với 740 điều kiện, Bộ Tài chính 22 ngành nghề với 671 điều kiện, Bộ GTVT có 30 ngành nghề với 606 điều kiện...
Riêng trong 243 ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì VCCI nhận thấycó 26 ngành nghề không phù hợp.
Thậm chí, có ngành, nghề thuộc danh mục nhưng lại không phải là ngành, nghề kinh doanh. Ví dụ như “kinh doanh dịch vụ logistics” thuộc danh mục nhưng logistics lại bao gồm nhiều hoạt động như vận tải, đóng gói, làm thủ tục thuế, hải quan... và mỗi hoạt động đó lại là một ngành, nghề riêng. Hoặc“hoạt động nhượng quyền thương mại” là phương thức kinh doanh chứ không phải là ngành, nghề...